Hiện vật khảo cổ học bằng gỗ, có hình như chiếc cuốc cầm tay, mà chúng tôi thảo luận trong bài này được xuất lộ sớm nhất trong cuộc khai quật Châu Can năm 1973-1974. Sau đó, chúng thường thấy trong các mộ thân cây khoét rỗng Đông Sơn, gần nhất tại Yên Bắc (Hà Nam cũ), do Bùi Văn Liêm khai quật năm 2001, hiện còn ngâm bảo tồn tại Bảo tàng tỉnh Hà Nam (cũ).

Xem chuyên đề Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất TẠI ĐÂY

1. Thuật ngữ sử dụng để chỉ hiện vật này khi mới khai quật ở Châu Can là "vời, cuốc". Chúng trở nên nổi tiếng khi gắn với cuộc thảo luận của Trịnh Sinh và Nguyễn Lân Cường trên báo An ninh Thế giới năm 2001, sau khi cả hai tác giả trực tiếp cùng khai quật được hiện vật này trong hai ngôi mộ thân cây khoét rỗng tại Châu Can năm 2000. Trong bài, tôi tạm dùng thuật ngữ "vời" cho hiện vật này.

Cuối năm 2022, Vũ Sĩ Lợi, một nhà sưu tầm ở Hưng Yên, mang đến nhờ Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á bảo quản hai chiếc vời trong sưu tập đồ gỗ và đồ sơn then mà anh vừa sưu tầm được ở vùng trũng Duy Tiên (Hà Nam cũ). Cuối năm 2024 và đầu năm 2025, hai nhà sưu tầm ở Hà Nội là Dương Minh Chính và Vũ Quốc Hội cũng mang đến thêm tổng số 8 chiếc vời gỗ tương tự, trong số trên 100 di vật gỗ, sơn then sưu tầm trong dân ở Duy Tiên (Hà Nam) và Phú Xuyên, Mỹ Đức (Hà Nội).

Tổng số sưu tập tôi hiện trực tiếp làm việc là 10 chiếc, ở trạng thái nguyên trạng, đặc biệt "tươi tốt" như mới. Hiện tại, chúng đã được ngâm tẩm, làm khô trong tình trạng tươi tốt, không co ngót, dễ dàng nghiên cứu. Dựa vào những đồ đồng kèm theo, dễ dàng nhận ra chúng thuộc niên đại Đông Sơn, sớm nhất là thế kỷ III trước Công nguyên và muộn nhất là thế kỷ I sau Công nguyên.

Những chiếc vời nói trên đa số còn nguyên cả phần lưỡi kim loại - điều mà những cuộc khai quật trước đây chưa từng ghi nhận. Với trạng thái nguyên vẹn cả phần lưỡi và sự cứng cáp của hiện vật, chúng tôi tiến hành chế bản 1/1 và thực nghiệm sử dụng.

2. Kết quả đo vẽ và thực nghiệm của chúng tôi cho thấy: Trước hết, góc bẻ giữa tay cầm và bản lưỡi không phù hợp với việc sử dụng theo chiều "cuốc bổ". Nhìn bản thống kê, có thể thấy góc lệch giữa tay nắm và trục lưỡi vời chỉ trong khoảng dao động 45 - 60 độ. Nếu dùng theo chiều bổ như "cuốc", chúng sẽ chỉ phù hợp với việc băm thân gỗ khi đối tượng băm có thể ngả tương ứng với hướng tác động của vời. Điều này gặp khó khăn hơn nhiều khi đối tượng là một mặt phẳng cố định như mặt đất.

Bên cạnh đó, núm xòe đốc tay cầm phù hợp hơn với hướng ngửa của bản lưỡi. Núm tay cầm đều được gia công xòe lớn hơn đường kính tay cầm; có chiếc phần núm dài 6 cm, rộng 4 cm. Hướng gãy góc của đốc không thuận lợi cho kiểu cầm chúc lưỡi xuống đất như kiểu cuốc, mà rất phù hợp với kiểu cầm ngửa lưỡi hất lên - như để đẩy, dũi lưỡi kim loại vào đối tượng tác động.

2a-17623852292031347278166.jpg
2b-17623852291731608243638.jpg

Một dụng cụ nghề mộc có chức năng như chiếc bào, có thể đẩy, dũi những phần gỗ bên trong lòng các thuyền độc mộc hoặc máng, đuống rất phổ biến thời Đông Sơn. Phía đầu dụng cụ còn nguyên trạng một lưỡi bào bằng đồng, hoàn toàn giống như lưỡi rìu nhỏ (hình trên ở tư thế nằm nghiêng, hình dưới chụp từ trên xuống)

Phản ánh từ các kiểu lưỡi kim loại hiện gắn cùng vời gỗ cũng cho các kết quả khác nhau. Cụ thể, với kiểu lưỡi rìu hình chữ nhật bằng đồng (4 chiếc), kích thước cho thấy chúng rõ ràng là dụng cụ dùng cho đối tượng gỗ, tre, nứa...

Với kiểu lưỡi rìu xéo bằng đồng (2 chiếc), đây là điều bất ngờ lớn khi thấy rìu chuyên cắt chặt được gắn với dụng cụ hình vời, cho thấy sự phù hợp với góc độ và tư thế tay cầm để dũi tay khi gia công đồ gỗ.

Với kiểu lưỡi mai bằng sắt (3 chiếc), tuy rất phù hợp với hình dung của dụng cụ làm đất, nhưng thực nghiệm cho thấy hiệu quả không cao. Khi để ngửa ra, chúng lại rất tiện lợi để tạo mặt phẳng - tương tự lưỡi bào hay dụng cụ bổ, băm, đào, nạo, vét lòng đồ gỗ (thuyền, máng, chậu...).

Với kiểu lưỡi trơn không có lưỡi kim loại đi cùng (1 chiếc), không loại trừ khả năng kiểu này được dùng cho vật liệu mềm như đất bùn, bột ngũ cốc hay keo bột thực vật. Chúng tôi sẽ phân tích vấn đề này sau khi có kết quả từ phòng thí nghiệm starchology (tinh bột học). Nhưng dù thế nào, cũng khó hình dung đó là dụng cụ làm đất vườn, ruộng.

3a-17623852292921350185685.jpg
3b-17623852293021549843942.jpg

Tay cầm với góc hẹp hoàn toàn không tiện lợi cho cách cầm “bổ”, mà rất thích hợp với tư thế nắm đẩy, dũi với lưỡi bào đồng hoặc sắt gắn ở đầu dụng cụ. Hình trên là toàn cảnh hiện vật; hình dưới đặc tả phần tay cầm công cụ

3. Từ đó, chúng tôi rút ra một số kết luận. Trước hết, có thể dùng kiến thức dân tộc học so sánh để gợi ý xác định chức năng hiện vật, nhưng trong thực tế có thể không đúng khi có thêm bằng chứng khảo cổ học. Sau khi phát hiện tình trạng gắn lưỡi kim loại in situ của sưu tập vời, tôi có thảo luận với một số thợ mộc Mường. Họ cho rằng đây là những dụng cụ gần gũi với nghề mộc địa phương, trước khi có dụng cụ cơ khí và điện.

Bên cạnh đó, cùng với phát hiện hàng chục thuyền độc mộc, hàng trăm quan tài độc mộc và hàng trăm hiện vật gỗ, sơn các loại thời Đông Sơn, chúng ta phải thừa nhận rằng lao động với đối tượng tre, nứa, gỗ - như nghề mộc - chiếm tỷ lệ rất cao trong đời sống Đông Sơn. Bộ đồ mô phỏng (miniature) về khoan, cưa, đục... trong mộ Giao Chỉ ở Đường Dù (Hải Phòng) là một dẫn liệu tốt cho sự phát triển của nghề mộc, nghề sơn đương thời.

Cuối cùng, một lần nữa xin cổ vũ cho sự thay đổi phương pháp khai quật, chỉnh lý và bảo quản đối với đối tượng đặc thù của loại hình mộ Đông Sơn ngậm nước, để có thể khai thác triệt để nhất tư liệu từ loại hình mộ táng đặc biệt này, nhằm tạo dựng bức tranh gần sát và hoàn chỉnh hơn về nền văn hóa Đông Sơn.

"Bộ đồ mô phỏng về khoan, cưa, đục... trong mộ Giao Chỉ ở Đường Dù (Hải Phòng) là một dẫn liệu tốt cho sự phát triển của nghề mộc, nghề sơn đương thời" - TS Nguyễn Việt.

(Còn tiếp)

XEM THÊM TIN TỨC VĂN HOÁ TẠI ĐÂY

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022