Quần thể danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc (Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng) sau khi được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới đã trở thành tâm điểm hành hương, thu hút lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.
Việc UNESCO ghi danh quần thể danh thắng này không chỉ là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt đối với ba địa phương Quảng Ninh, Bắc Ninh và Hải Phòng, còn là dấu mốc quan trọng khẳng định tầm vóc toàn cầu của một hệ tư tưởng tâm linh - văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Đó là tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, với hạt nhân là triết lý “Tam hòa: hòa giải - hòa hợp - hòa bình”, một hệ giá trị nhân văn sâu sắc vẫn còn nguyên sức sống trong thế giới đương đại đầy biến động hôm nay.
Sự kết hợp độc đáo giữa Nhà nước, tôn giáo và nhân dân
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới theo các tiêu chí (iii) và (vi), là bằng chứng cho sự kết hợp độc đáo giữa Nhà nước, tôn giáo và nhân dân trong việc hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam; cùng cảnh quan linh thiêng được hình thành thông qua mối tương tác thường xuyên, mật thiết với thiên nhiên và một hệ thống đạo đức dựa trên lòng yêu chuộng hòa bình, tu dưỡng bản thân, lòng khoan dung, nhân ái và sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên.
Theo đó, tiêu chí (iii) là sự kết hợp hài hòa giữa Nhà nước, tôn giáo và cộng đồng nhân dân được phát triển từ vùng đất quê hương miền núi Yên Tử, đã tạo ra một truyền thống văn hóa độc đáo có ý nghĩa toàn cầu, định hình bản sắc dân tộc, thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực rộng lớn hơn.
Lễ cung nghinh Tôn tượng Tam Tổ Trúc Lâm từ chốn Tổ chùa Vĩnh Nghiêm lên chùa Thượng Tây Yên Tử, thuộc Khu di tích danh thắng Tây Yên Tử (huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang). Ảnh: Thành Đạt - TTXVN
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc là minh chứng đặc biệt về Phật giáo Trúc Lâm, một truyền thống Thiền độc đáo của Việt Nam được thành lập vào thế kỷ XIII bởi các vua nhà Trần, hoàng gia và các nhà tu hành thông tuệ, đặc biệt là Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị quân chủ duy nhất được biết đến ở châu Á đã từ bỏ vương vị để trở thành một nhà tu hành, có công khai sáng nên một dòng Thiền mang đậm triết lý nhân sinh, cốt cách Việt Nam. Tích hợp Phật giáo Đại thừa với Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng bản địa, Phật giáo Trúc Lâm đã góp phần định thành nền tảng tinh thần của quốc gia Đại Việt, tạo động lực cho sự trỗi dậy của một quốc gia tự chủ, tự cường, đồng thời thúc đẩy đối thoại văn hóa, tinh thần hữu nghị hòa bình giữa các dân tộc. Trong suốt nhiều thế kỷ, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc luôn là nơi có vai trò quan trọng trong việc thực hành, trao truyền và lan tỏa, sáng tạo văn hóa. Tinh thần khoan dung, sáng tạo của Phật giáo Trúc Lâm đã truyền cảm hứng và giá trị nhân bản cho cộng đồng trong nước và quốc tế.
Còn trong tiêu chí (vi), khẳng định Phật giáo Trúc Lâm là một minh chứng có ý nghĩa toàn cầu về cách thức một tôn giáo, xuất phát từ nhiều tín ngưỡng, bắt nguồn và phát triển từ quê hương Yên Tử, đã ảnh hưởng đến xã hội thế tục thúc đẩy một quốc gia mạnh mẽ, bảo đảm hòa bình và hợp tác khu vực.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc liên quan trực tiếp đến sự sinh thành và lan tỏa giá trị sáng tạo, nhân văn của Phật giáo Trúc Lâm. Việc liên tục tổ chức các nghi lễ, lễ hội, hoằng dương Phật pháp và hành hương đến các điểm di tích - cả ở Việt Nam và các tổ chức Phật giáo Trúc Lâm quốc tế - chứng minh sự liên quan toàn cầu bền vững của triết lý nhân sinh, giá trị sống, tinh thần cộng đồng xã hội, sống hài hòa với thiên nhiên, yêu chuộng hòa bình và lòng nhân ái.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc thể hiện đầy đủ truyền thống Phật giáo Trúc Lâm, từ việc thành lập tại vùng núi thiêng Núi Yên Tử được chứng minh trong các đền cổ, di tích khảo cổ, đến di tích chùa Vĩnh Nghiêm và Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc; và sự hệ thống hóa các triết lý thể hiện qua các văn bia, di vật liên quan và thực hành nghi lễ. Các di tích này cung cấp đầy đủ đại diện về các chiều kích lịch sử, tinh thần và địa lý của Phật giáo Thiền Trúc Lâm, thể hiện rõ quá trình hình thành, phát triển, mối quan hệ bền vững của các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu trong các không gian lịch sử, văn hóa.
Chùa Quỳnh Lâm thuộc Khu di tích lịch sử nhà Trần (thị xã Đông Triều, Quảng Ninh) là một trong các ngôi chùa nổi tiếng của Việt Nam. Xưa kia chùa là một trung tâm Phật giáo quan trọng của dòng thiền Trúc Lâm. Ảnh: Thành Đạt - TTXVN
Linh hồn của quần thể danh thắng
Nhiều chuyên gia nhận định, việc Quần thể danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa thế giới không đơn thuần là sự ghi nhận đối với một hệ thống di tích, danh thắng có giá trị nổi bật toàn cầu, sâu xa hơn, là sự tôn vinh một không gian di sản sống, nơi kết tinh tư tưởng, triết lý và hành trình hoằng dương Phật pháp độc đáo của Phật hoàng Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm.
UNESCO đã nhìn thấy ở quần thể này không chỉ những ngôi chùa cổ, những am tháp rêu phong hay cảnh quan núi non hùng vĩ, còn là một hệ tư tưởng nhân văn đặc sắc, được hình thành từ lịch sử, nuôi dưỡng bởi tâm linh và tiếp tục lan tỏa giá trị trong đời sống đương đại. Chính tư tưởng ấy - đặc biệt là triết lý “tam hòa” - đã làm nên linh hồn của quần thể danh thắng, mang lại cho di sản một chiều sâu phi vật thể hiếm có.
Nói về tư tưởng Phật hoàng Trần Nhân Tông và giá trị cốt lõi của Phật giáo Trúc Lâm, Hòa thượng Thích Thanh Quyết, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội đã nhấn mạnh đến tư tưởng “Tam hòa” của Phật hoàng Trần Nhân Tông gồm: Hòa giải, hòa hợp và hòa bình.
Hòa thượng Thích Thanh Quyết chia sẻ, từ khi được mời vào giai đoạn cuối cùng của hành trình 13 năm làm hồ sơ để Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới, cho đến khi cùng đoàn Việt Nam sang tham dự Kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản Thế giới (UNESCO) tổ chức tại Thủ đô Paris (Pháp) vào tháng 7/2025 để bảo vệ hồ sơ, Hòa thượng vẫn cảm thấy vô cùng khó khăn bởi không biết sẽ nói gì trong khoảng thời gian chỉ có 20 phút.
Để khái quát được những giá trị cốt lõi xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp tư tưởng, chính trị và tâm linh của Phật hoàng Trần Nhân Tông, Hòa thượng Thích Thanh Quyết chọn cách tiếp cận bằng một khái niệm cô đọng nhưng có sức bao trùm lớn: tinh thần “Tam hòa” - phản ánh bản chất tư tưởng của Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng như giá trị lịch sử, giá trị thời đại và ý nghĩa sâu sắc của tinh thần ấy đối với đời sống hôm nay.
Thứ nhất là Hòa giải. Phật hoàng Trần Nhân Tông đã thực hành tinh thần hòa giải một cách triệt để, từ trong nội bộ hoàng tộc, từ gia đình nhà Trần, cho tới triều đình và đời sống xã hội. Ngài chủ trương hóa giải mọi mâu thuẫn, bất đồng, đặt lợi ích chung của quốc gia - dân tộc lên trên những xung đột cục bộ, cá nhân. Chính tinh thần hòa giải ấy đã tạo nên sự ổn định nội tại, làm nền tảng cho sức mạnh quốc gia.
Thứ hai là Hòa hợp. Hòa thượng nhấn mạnh, Phật hoàng Trần Nhân Tông không chỉ là một nhà tu hành, còn là một nhà tư tưởng lớn, người đã thống nhất và dung hòa các hệ tư tưởng, văn hóa, tôn giáo đương thời, cũng như các cộng đồng dân tộc khác nhau, để kết tinh thành một sức mạnh chung của triều Trần. Từ đó hình thành nên tinh thần Diên Hồng, hào khí Đông A - biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên chiến thắng vẻ vang trước quân Nguyên - Mông, bảo vệ nền độc lập của Đại Việt.
Theo tư liệu lịch sử, năm 1329 Phật Hoàng Trần Nhân Tông cho xây 5 cây bảo tháp chính là khu vườn tháp đã được tu sửa tạo nên cảnh quan kỳ vĩ như hiện nay của chùa Hồ Thiên (Trù Phong tự) - nơi đăng đàn thuyết pháp của Phật hoàng Trần Nhân Tông và Pháp Loa, nay thuộc Khu di tích lịch sử nhà Trần (thị xã Đông Triều, Quảng Ninh). Ảnh: Thành Đạt - TTXVN
Thứ ba là Hòa bình. Từ nền tảng hòa giải và hòa hợp, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã kiến tạo một tư tưởng hòa bình bền vững, không chỉ cho đất nước Việt Nam mà còn trong quan hệ với các quốc gia láng giềng. Khi đã rời ngai vàng, Ngài tiếp tục đóng vai trò như một sứ giả hòa bình, chủ trương xây dựng quan hệ hữu hảo, tránh xung đột, giữ gìn ổn định khu vực. Tư tưởng hòa bình ấy vượt qua giới hạn của một triều đại, trở thành giá trị lâu dài, được nhân dân Việt Nam kế thừa và phát huy suốt hơn 700 năm qua.
Hòa thượng Thích Thanh Quyết cho rằng, trong bối cảnh thế giới hiện nay vẫn đang đối mặt với xung đột, chiến tranh, tư tưởng “Tam hòa” của Phật hoàng Trần Nhân Tông càng cho thấy giá trị thời sự sâu sắc. Hòa bình là khát vọng chung của mọi dân tộc và một triết lý đặt trên nền tảng hòa giải, hòa hợp để đi tới hòa bình luôn là điều mà nhân loại cần hướng tới.
Việc UNESCO ghi danh Quần thể danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là sự khẳng định giá trị toàn cầu của một di sản không chỉ được xây bằng đá, gỗ và thời gian mà được kiến tạo bằng trí tuệ, từ bi và tinh thần hòa bình. Tư tưởng “Tam hòa” của Phật hoàng Trần Nhân Tông - như Hòa thượng Thích Thanh Quyết đã khẳng định - chính là “linh hồn” của quần thể, là giá trị phi vật thể làm nên sức sống trường tồn của quần thể di sản thế giới này.
Các chuyên gia về văn hóa, du lịch cho rằng, trong bối cảnh du lịch tâm linh đang phát triển mạnh mẽ, việc UNESCO ghi danh Quần thể danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc đặt ra yêu cầu phải phát triển du lịch theo hướng bền vững, có chiều sâu. Tư tưởng “tam hòa” của Phật hoàng Trần Nhân Tông chính là vốn quý để xây dựng các sản phẩm du lịch tâm linh mang tính giáo dục, trải nghiệm và chữa lành. Du lịch tại đây không chỉ là tham quan, lễ bái, mà là hành trình trải nghiệm giá trị tâm linh. Đây cũng là con đường phát triển du lịch vừa phù hợp với tinh thần di sản, vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của xã hội hiện đại.


































