Theo chứng tích khảo cổ học thì các nền văn hóa tiền sử trước Đông Sơn trên lãnh thổ Việt Nam rất ít liên quan đến rắn. Nếu đâu đó có thấy xương rắn trong tầng văn hóa thì có lẽ chúng chỉ là tàn tích thức ăn mà người xưa đã để lại. Nhưng có những chứng cứ về rắn hiển hiện không thể chối cãi gắn với các hiện vật tâm linh Đông Sơn được đúc bằng đồng có niên đại khoảng 2.300 năm trở về trước.
1. Trong số các động vật linh thiêng cổ đại thì ngoài tứ linh (rồng, hổ, rùa, công, hay Long, Ly, Quy, Phượng sau này) còn tồn tại 12 con thú tạo thành vòng can quay vòng kết hợp với chuyển dịch 10 chi (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) để tạo thành một Giáp (60 năm tròn). Rắn được chọn làm một trong số 12 con thú đó, mang tên "Tỵ", sau Rồng (Thìn) và trước Ngựa (Ngọ). Tỵ kết hợp với Dậu, Sửu tạo thành Tam hợp.
Trong bài này tôi sẽ không đi quá sâu vào chuyện lịch pháp đó, mà chủ yếu tìm hiểu những chứng cứ khảo cổ học, qua đó chỉ ra những mối liên hệ tự sinh từ các bằng chứng khách quan đó.
Hình toàn thể dao găm Làng Vạc với đặc tả phần cán hình hai rắn cuốn đỡ voi mang bành chở trống đồng trên lưng. Ảnh tư liệu Viện Khảo cổ học
Rắn được ghi nhận sớm nhất trong toàn vùng Đông Á là từ nền văn hóa đá mới Ngưỡng Thiều. Trên một đĩa gốm được tráng lớp áo màu vàng nhạt làm từ bột sét mịn trộn nhựa cây, người thợ gốm đã đặt tâm linh cộng đồng vào hình một con rắn hai đầu sắc màu nâu đỏ, nằm cuộn tròn trong lòng đĩa. Chiếc đĩa quý giá này được xác định tuổi trên dưới 6.000 năm trước.
Ở những lát cắt thời gian tiếp theo, khi đồ đồng lễ nghi xuất hiện cùng với các nhà nước sớm ra đời ở các vùng đồng bằng màu mỡ nhất thuộc lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang (Trung Hoa), rắn thần gắn liền với các vị thần linh khu vực. Điển hình nhất là hình rắn trên tay cầm của thần chiến tranh (hay thần chết) được đúc trên một rìu chiến thuộc nhóm trồng lúa Ba Thục lưu vực Trường Giang. Nhiều trường hợp rắn cuộn trên đầu thần linh như tóc vậy.
Có vẻ như thần rắn phù hợp với phương Nam hơn phương Bắc, trở thành một vật linh trong nền văn minh Tam Tinh Đôi, Kim Sa của nước Thục cổ đại có tuổi 3 - 4 ngàn năm trước. Những hình rắn được tạo bằng vàng ròng nguyên con hoặc gắn vào vỏ bao kiếm bằng vàng… phản ánh vị thế tâm linh cao của rắn trong trật tự thần thánh cổ Thục.
Sau khi nước Thục bị Tần chinh phục giữa thế kỷ 4 trước Công nguyên, đa phần quý tộc Thục di tản về phía Nam và phía Tây, phối hợp với các quý tộc bản địa Tây Nam Di tạo ra hàng loạt tiểu quốc phương Nam.
Từ thế kỷ III trước Công nguyên, nước Âu Lạc trên lãnh thổ miền Bắc của Việt Nam và một phần Vân Nam, Lưỡng Quảng (Trung Hoa) đã được ghi trong sử sách là được tạo lập bởi một "Thục Vương Tử" (tức Thục Phán, An Dương Vương). Vị trí của thần rắn đã ngự trị trong các văn vật kinh điển của khối văn hóa Điền, Ai Lao, Dạ Lang và Văn Lang - Âu Lạc…
Trong khối Đông Sơn thì khối Đông Sơn Tây Âu được cho là những cư dân mang đậm truyền thống cổ Thục nhất. Một phần khối Tây Âu đã bị nhập vào Điền trong khoảng thế kỷ IV - III trước Công nguyên, tạo ra màu sắc Việt khá đậm trong văn hóa Điền vốn dĩ do những quý tộc du mục Côn Minh cai trị. Cư dân Tây Âu là những người trồng lúa nước, đi thuyền trên sông, chế tạo và tôn cúng trống đồng… gần gũi với những người Văn Lang Lạc Việt ở phía Đông và phía Nam. Những quý tộc hậu duệ của hoàng triều cổ Thục đã tạo lập quyền lực của mình trong cả khối Tây Âu này và có lẽ thần rắn đã gắn với họ, ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa vật chất và tâm linh Điền và Âu Lạc, trước khi cả hai lệ thuộc nhà Hán.
Điển hình nhất phải kể đến chiếc trống đồng khai quật trong một ngôi mộ rất giàu có thuộc huyện Quảng Nam, châu Văn Sơn (Vân Nam, Trung Quốc) mà các nhà khảo cổ học Trung Quốc ngờ rằng đó là mộ của vua Câu Đinh được lưu truyền trong vùng. Chiếc trống lớn, rất đẹp thuộc phong cách Tây Âu, được đúc trên mặt trống những hình rắn thần rất sinh động.
Trong văn hóa Đông Sơn bộc lộ khá rõ hai khối lớn có ít nhiều khác biệt. Tôi vẫn gọi là khối Tây Âu và khối Lạc Việt. Sự hội nhập của hai khối về mặt thượng tầng diễn ra ở cuối thế kỷ IV hay đầu thế kỷ III trước Công nguyên, với ưu thế thuộc về quý tộc Tây Âu do Thục Phán An Dương Vương đứng đầu, để chống với mối đe dọa bành trướng của nhà Tần về phương Nam. Dấu tích văn hóa vật chất của khối Đông Sơn Tây Âu phân bố đậm ở thượng và trung du sông Hồng, Lô, Đà, lưu vực sông Đáy… trong thế kỷ IV - III trước Công nguyên. Sau khi Âu Lạc sáp nhập vào nước Nam Việt, các đa số quý tộc Âu Lạc di chuyển theo đường thượng đạo qua Miếu Môn (Hà Nội), Chi Nê (Hòa Bình), qua Ninh Bình vượt Tam Điệp vào Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Thọ Xuân, Thường Xuân (Thanh Hóa) cũng như Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp (Nghệ An). Sử sách Trung Hoa đương thời gọi họ là man Dạ Lang đã từng làm khuynh đảo đất Cửu Chân dưới thời Nhâm Diên.
Phân bố những di vật đồng Đông Sơn in đậm tâm linh thần rắn trùng với phân bố kể trên của các quý tộc Tây Âu và tuyến di tản của họ. Nơi ghi nhận lưu giữ nhiều hiện vật đồng Đông Sơn mang theo biểu tượng thần rắn nhất hiện biết là vùng Làng Vạc (hệ thống nhiều mộ táng Đông Sơn mang phong cách Tây Âu nhất).
2. Xuân này, tôi muốn nhắc đến câu chuyện khai quật ngôi mộ đầu tiên có chôn theo con dao găm đồng có cán là đôi rắn cuốn nhau cùng nâng một con voi có bành chở trống tại khu mộ táng Làng Vạc.
Câu chuyện bắt đầu từ hơn 50 năm trước. Vào khoảng 1972 - 1973 khi chiến tranh phá hoại bằng máy bay ném bom Mỹ lan ra khắp miền bắc, nhân dân Nghĩa Đàn, Nghệ An thông báo cho bảo tàng tỉnh, khi đó là tỉnh Nghệ Tĩnh về việc xuất lộ đồ đồng Đông Sơn, gồm cả trống đồng ở một thung lũng vùng đồi Làng Vạc.
Họa sĩ Nguyễn Văn Phúc đang chụp ảnh hiện vật trong hố khai quật mộ Làng Vạc năm 1973. Ảnh tư liệu Viện Khảo cổ học
Viện khảo cổ đã kịp thời cử đoàn công tác do Trịnh Minh Hiên, Trưởng Ban khảo cổ học thời kim khí, cùng họa sĩ Nguyễn Văn Phúc đi tàu vào Làng Vạc cùng các cán bộ bảo tàng tỉnh khi đó là anh Hà Thắng và chị Trương Quế Phương tiến hành triển khai khai quật cứu vãn di tích đã bị xuất lộ, mặc cho máy bay Mỹ vẫn hàng ngày ném bom oanh tạc tuyến đường mòn Trường Sơn cách không xa di tích.
Ấn tượng thật sâu sắc. Cho đến ngày hôm nay, họa sĩ Phúc, dù đã chuyển công tác sang Truyền hình Cần Thơ ba, bốn chục năm nay vẫn nhớ như in cảm giác vỡ òa khi nâng trên tay từ lòng đất con dao găm cán rắn cuốn bằng đồng gỉ xanh màu lá mạ đó. Anh vẫn luôn giữ bên mình bản ảnh gốc chụp hình con dao và đã nhiều lần gò phục hồi lại hình dáng dao găm đó tặng bạn bè, đồng nghiệp. Bảo tàng Phạm Huy Thông của tôi cũng được anh trân quý tặng một tác phẩm gò đồng con dao găm này.
Con găm dài khoảng 17cm, gồm lưỡi mỏng hình lá tre và phần cán là hình đôi rắn cuốn thân vào nhau, dùng đầu nâng chân một con voi còn nguyên bành chở trống bên trên. Đây là biểu tượng rất điển hình cho phối hợp hai loài vật tâm linh Âu (rắn) - Lạc (voi). Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện rắn trên đồ đồng Đông Sơn.
Chiếc vòng đeo tay “ổ rắn” làm theo phong cách khuôn ốp đan lát Làng Vạc. Vòng tay đường kính chỉ 7cm, có khóa để đóng mở. Bản vòng rộng 3cm mỗi nửa có một đôi rắn lồng nhau. Mỗi cặp rắn châu đầu vào đớp một con rắn nhỏ ở vị trí chốt khóa, tạo thành một ổ 6 con rắn bao quanh chiếc vòng. Ảnh do tác giả chụp từ sưu tập Karim Gussenmayer (Gent, Bỉ).
Trong những cuộc khai quật về sau, các nhà khảo cổ còn phát hiện một dao cán hình rắn cuốn như vậy nữa. Cho đến nay, theo tư liệu tôi ghi nhận thì đã phát hiện tại Làng Vạc ba chiếc vòng đeo tay tạo hình rắn hai đầu. Tôi đã từng giới thiệu chiếc vòng tay đơn trong sưu tập CQK (California, Mỹ) và chiếc vòng đeo tay có móc khóa rất tinh tế trong sưu tập Karim Gussenmayer (Gent, Bỉ) trong chuyên mục "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất".
"Con dao găm Làng Vạc là biểu tượng rất điển hình cho phối hợp hai loài vật tâm linh Âu (rắn) - Lạc (voi). Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện rắn trên đồ đồng Đông Sơn" - TS Nguyễn Việt.