Trong chiến lược phát triển văn hóa, Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh rằng phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa là một nhiệm vụ trọng tâm, nhằm xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa cũng như chất lượng con người Việt Nam.
Tuy nhiên, trước sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, cùng với những biến động phức tạp trong kinh tế và chính trị toàn cầu, thị trường văn hóa đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Sự thay đổi nhanh chóng trong thói quen tiêu dùng và nhu cầu thụ hưởng văn hóa của công chúng đòi hỏi thị trường văn hóa Việt Nam phải không ngừng đổi mới, sáng tạo và linh hoạt để thích nghi với bối cảnh mới.
Ngày càng khởi sắc
Trong 5 năm qua, thị trường văn hóa Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Theo số liệu thống kê giá trị tăng thêm (giá hiện hành) của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào nền kinh tế năm 2018 ước đạt 5,82%; năm 2019 ước đạt 6,02%; năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của đại dịch nên số liệu có sự sụt giảm chỉ còn khoảng 4,32% và 3,92%; đến năm 2022 các ngành đã bắt đầu phục hồi và giá trị đóng góp có sự tăng trưởng ước đạt 4,04%. Giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam giai đoạn 2018-2022 đóng góp ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD).
Chuỗi concert “Anh trai vượt ngàn chông gai” là một trong những minh chứng sống động trong việc đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
Giai đoạn 2018-2022, bình quân 5 năm tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa ước đạt 7,2%/năm; năm 2022, thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa. Lực lượng lao động thuộc các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh, bình quân 5 năm tăng 7,4%/năm, năm 2022 thu hút khoảng 2,3 triệu lao động, chiếm tỷ trọng 4,42% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế. Xuất nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa năm 2018 xuất siêu đạt 37 tỷ USD, năm 2022 đạt 41,9 tỷ USD.
Nhìn vào những con số trên, có thể thấy thị trường văn hóa Việt Nam đã có những "trái ngọt", trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế. Xác định là trụ cột kinh tế quốc gia, ngành công nghiệp văn hóa có thể nói đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Điển hình năm 2024, ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã khởi sắc với hàng loạt sự kiện tầm cỡ.
Theo báo cáo tổng kết năm của Bộ VH,TT&DL tại Hội nghị tổng kết năm 2024, triển khai nhiệm vụ trọng tâm 2025 của ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch với chủ đề "Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - Động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" diễn ra trung tuần tháng 12/2024, các sự kiện văn hóa, nghệ thuật cấp quốc gia, cấp vùng tiếp tục được tổ chức gắn kết chặt chẽ với các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa cơ sở. Đặc biệt, công nghiệp văn hóa từ sau Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất do Thủ tướng Chính phủ chủ trì vào tháng 12/2023 đã có những dấu ấn đột phá với các chương trình có tầm vóc, sức thu hút và hiệu ứng xã hội lớn. Trong lĩnh vực điện ảnh và nghệ thuật biểu diễn, đã có nhiều sản phẩm công nghiệp văn hóa đặc sắc như Lễ hội thiết kế sáng tạo Hà Nội 2024, Liên hoan quốc tế nhạc Jazz lần thứ I - Nha Trang 2024, các đêm diễn "cháy vé" của chương trình Anh trai vượt ngàn chông gai, Anh trai say hi... là những minh chứng sống động trong việc thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Bên cạnh đó, những lễ hội âm nhạc như GENfest, Những thành phố mơ màng, Liên hoan Âm nhạc quốc tế TP HCM lần 4, Maximizing Concert… Những lễ hội du lịch văn hóa như Lễ hội Áo dài, Lễ hội Sông nước TP.HCM, Festival hoa Đà Lạt, và Festival Pháo hoa Đà Nẵng… đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa, trở thành "thỏi nam châm" thu hút rất đông du khách trong và ngoài nước, thúc đẩy đáng kể cho ngành du lịch và kinh tế địa phương.
Nhưng chưa khai thác hết tiềm năng
Nhìn vào bức tranh phát triển của công nghiệp văn hóa Việt Nam trong thời gian qua, theo ông Lê Quốc Vinh, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Truyền thông Lê, Việt Nam đã có sự thay đổi thực sự đáng nể, nhiều ngành đã tạo ra một sự lột xác lớn. Điển hình, ngành điện ảnh đã có những bộ phim đạt được doanh thu hàng trăm tỷ. Hay ngành hội họa, trước đây chỉ loanh quanh trong nước thôi nhưng bây giờ tranh của mình đã có mặt trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước cũng rất sôi động. Rồi sách báo cũng phát triển rất đa dạng dưới sự tham gia của các công ty sách tư nhân. Các ngành khác như âm nhạc hay quảng cáo cũng rất xuất sắc. Hiện tại, chúng ta đã có nhiều sản phẩm âm nhạc chất lượng, rồi nhiều nghệ sỹ, ca sỹ cũng đã bước ra ngoài thế giới. Và ngành quảng cáo, theo ông Vinh có thể nói không thua gì ngành quảng cáo thế giới.
Trình diễn cổ phục trong tối khai mạc Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2024, tại quảng trường Nhà hát Lớn, Hà Nội. Ảnh: Khánh Hòa – TTXVN
Và, mặc dù công nghiệp văn hóa của chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên theo ông Vinh, chúng ta chưa vội tự mãn, bởi tiềm năng của ngành này còn lớn hơn rất nhiều.
"Tôi lấy ví dụ như lĩnh vực game, bản chất của nó là một ngành kinh tế sáng tạo đột phá của hiện đại, nhưng ở Việt Nam chúng ta lại hay quan niệm rằng nó là một thứ vô bổ hay thậm chí là có hại. Đây là nhìn nhận khá lệch lạc về game" - ông Vinh nói. "Theo thống kê, hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ tư trên toàn thế giới về số lượng đăng ký các game được yêu thích toàn cầu. Tuy nhiên, lợi ích mà chúng ta thu được lại rất nhỏ vì phần lớn các doanh nghiệp làm game họ gặp khó khăn về chính sách nên dù là người Việt Nam, họ làm việc tại Việt Nam nhưng họ lại đăng ký tại Singapore và nộp thuế cho Singapore. Đây là một điều đáng tiếc. Nếu ngành game có những chính sách thu hút hay hỗ trợ xứng đáng thì tổng hợp tất cả những giá trị mà nó mang lại, theo tôi là cực kỳ lớn".
Ông Vinh cũng cho rằng, hiện tại, Việt Nam đang thiếu những chính sách thỏa đáng thúc đẩy cho lực lượng đầu tư cho ngành công nghiệp văn hóa. "Chúng ta đang ở trong thể chế hướng về người trực tiếp lao động nghệ thuật. Điều này không có gì sai nhưng nếu như không có những nhà đầu tư, nhà kinh doanh các sản phẩm văn hóa thì sẽ thiếu hụt đi một phần quan trọng là những người có kinh nghiệm bỏ vốn đầu tư để phát triển những sản phẩm văn hóa đấy.
Việc đầu tư cho lĩnh vực văn hóa hiện nay đang khá bấp bênh và rủi ro. Ví như nhà đầu tư khi đầu tư vào một sản phẩm văn hóa thuần túy mang tính chất được, thua, phụ thuộc vào cảm xúc, sự yêu thích của khách hàng như là một bộ phim, một vở kịch hay một chương trình biểu diễn. Khi được khách hàng yêu thích bao nhiêu thì giá trị được gia tăng bấy nhiêu" - ông Vinh nói tiếp - "Nó không giống như những sản phẩm thông thường khác nên giá bán của nó được hoạch định dựa trên lợi nhuận kỳ vọng và sự đầu tư về sản xuất. Nhưng đối với sản phẩm văn hóa, người sản xuất tạo ra sản phẩm ấy càng được yêu thích bao nhiêu thì giá trị càng lớn bấy nhiêu. Ngày hôm nay, một họa sỹ họ chưa có tên tuổi thì bức tranh của họ chỉ có giá vài triệu, thậm chí cho không, nhưng khi họ nổi tiếng thì giá trị của bức tranh ấy được tăng lên rất nhiều hoặc cũng có thể là vô giá".
PGS-TS Lê Ngọc Tòng, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Khoa học (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), tác giả Giáo trình Kinh tế học Văn hóa, cho rằng, ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp văn hóa đã có những sáng kiến trong việc xây dựng mạng lưới phát triển thị trường văn hóa, nhưng vẫn mang tính nhỏ lẻ, thiếu sự gắn kết chặt chẽ với các chính sách hỗ trợ từ nhà nước.
"Thị trường nội địa và quốc tế dành cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam vẫn chưa có sức cạnh tranh trên quy mô lớn. Đặc biệt, vấn đề vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra phổ biến, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp văn hóa" - PGS-TS Lê Ngọc Tòng nói.
Ông Tòng cũng cho rằng, việc thiếu chiến lược đồng bộ và các biện pháp quản lý hiệu quả đã khiến thị trường văn hóa Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng vốn có, đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa trên thị trường quốc tế.
"Tôi lấy ví dụ như lĩnh vực game, bản chất của nó là một ngành kinh tế sáng tạo đột phá của hiện đại, nhưng ở Việt Nam chúng ta lại hay quan niệm rằng nó là một thứ vô bổ hay thậm chí là có hại. Đây là nhìn nhận khá lệch lạc về game" - ông Lê Quốc Vinh.