Bên cạnh những thành tựu quan trọng, văn học Việt Nam sau năm 1975 vẫn đối diện không ít tồn tại, ảnh hưởng đến sự phát triển, từ chất lượng tác phẩm cho đến sức lan tỏa ra với thế giới. Những vấn đề này càng trở nên phức tạp trong bối cảnh hiện đại, khi văn học chịu nhiều tác động từ công nghệ, biến đổi xã hội và đặc biệt là tâm thế sáng tạo của người cầm bút, cũng như sự suy giảm về thói quen đọc.
Đó là những nội dung nổi bật được nêu tại Hội thảo "Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng" do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức mới đây tại Hà Nội. Hội thảo ghi nhận nhiều ý kiến thẳng thắn, trực diện, hướng đến khơi mở con đường phát triển mới cho văn học đương thời.
Tác động mạnh mẽ của AI
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) nhấn mạnh rằng văn học Việt Nam đang bước vào một chặng đường nhiều thử thách trong một kỷ nguyên mới, buộc nhà văn phải nhìn lại hành trình sáng tạo của mình. Ông đặc biệt lưu ý đến sự tác động mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI) đối với đời sống văn chương hiện nay.
"Hiện nay có những dấu hiệu, dấu vết, có những chứng cứ cho thấy một số tác phẩm đã dùng AI ở một mức độ nào đó. Nếu chúng ta không cẩn trọng, đến một ngày trí tuệ nhân tạo có thể thay thế nhà văn" - ông cảnh báo - "Có thể có rất nhiều nhà văn đã dùng trí tuệ nhân tạo. Nhưng nhà văn sẽ chỉ bị AI chiến thắng khi từ bỏ bản lĩnh sáng tạo, đánh mất cá tính và chính kiến riêng".
Hội thảo “Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng”
Nhà thơ này cũng bày tỏ, sự nguy hiểm lớn hơn không chỉ nằm ở công nghệ, mà ở chỗ "trong một khoảnh khắc nào đó, có những nhà văn nào đó đã trở thành AI, thành robot trong chính sáng tác của mình" khi mải đi lại con đường cũ, lặp lại khu vực an toàn một cách vô lý.
"Vũ khí mạnh nhất của nhà văn là sự sáng tạo, chính kiến, rung cảm và trí tuệ riêng. Nếu để AI thay thế, tức là chúng ta kết thúc văn học, kết thúc văn hóa" - ông nhấn mạnh.
Ở góc nhìn tương tự, nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc - người dành nhiều tâm huyết cho việc bảo tồn văn hóa Thái và trực tiếp xây dựng Bảo tàng Văn hóa Thái ở Lai Châu - bày tỏ rằng bà không sợ AI. Một phần vì không thạo công nghệ, nhưng quan trọng hơn, bà tin rằng nhà văn sở hữu những điều AI không bao giờ có.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều phát biểu tại hội thảo
"Tôi không sợ bởi trong tôi có những cái AI không có. AI chỉ giống như một thư viện khổng lồ, tổng hợp các thành tựu của nhân loại qua hàng nghìn năm. Nhưng tôi, với tư cách một người viết, có những tàng thức riêng, có ký ức, giấc mơ, những khung cảnh và con người mà hiện thực và AI không thể chạm tới. Đó là điều tôi đưa vào trang viết" - bà nói.
Theo bà Tấc, AI chỉ có thể đóng vai trò gợi ý cho sáng tạo, chứ không thay thế được người viết. "Người cầm bút nếu chỉ đi theo lối mòn thì đáng sợ hơn nhiều so với AI. Tôi nghĩ nhà văn không cần sợ AI khi họ còn giữ được thế giới riêng, giấc mơ riêng và thể hiện chúng qua ngôn ngữ".
Lực cản lớn nhất từ chính nhà văn
"Vũ khí mạnh nhất của nhà văn là sự sáng tạo, chính kiến, rung cảm và trí tuệ riêng. Nếu để AI thay thế, tức là chúng ta kết thúc văn học, kết thúc văn hóa" - NHÀ THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU.
Đặt sự phát triển văn học Việt Nam trong một tầm nhìn rộng lớn, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho rằng, đến nay, "chân dung" của văn học Việt Nam trên thế giới vẫn còn rời rạc, chưa có vị thế xứng đáng. Ông nhấn mạnh, trong khi các nhà văn trên thế giới khao khát một hiện thực như ở Việt Nam - một hiện thực sôi động và dạt dào cảm xúc - thì văn học nước nhà vẫn chưa tạo ra những tác phẩm như mong đợi.
"Tại sao cho đến bây giờ văn học Việt Nam vẫn không có tác phẩm ngang tầm thời đại? Câu hỏi ấy, chỉ có chính các nhà văn mới trả lời được. Trong những vật cản, tôi cho rằng vật cản lớn nhất, khó khăn nhất và phức tạp nhất chính là các nhà văn" - ông thẳng thắn.

Nhà thơ Đỗ Thị Tấc phát biểu tại hội thảo
Theo ông Thiều, nguyên nhân nằm ở chỗ người viết chưa thoát ra khỏi chính mình, vẫn bị ràng buộc bởi những lối mòn trong tư duy, cảm xúc và sáng tạo. "Nếu không vượt lên chính mình, không phá bỏ vật cản từ bên trong, thì khó có thể mở ra con đường mới. Văn học Việt Nam không phụ thuộc vào một tổ chức mang tên Hội Nhà văn, mà phụ thuộc vào từng nhà văn trong căn phòng viết của mình" - ông bày tỏ.
Đồng quan điểm, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp (nguyên Viện trưởng Viện Văn học) cho rằng, những yếu tố cản trở văn học Việt Nam có nhiều, từ khách quan đến chủ quan, từ "thời tiết" văn hóa, xã hội, đến những biến động trong đời sống. Nhưng điều then chốt nhất, theo ông, vẫn là: "Nhà văn có dám vượt lên chính mình hay không? Có nhận thấy rằng mình chưa viết hết sức hay không? Và có dám đương đầu với thử thách hay không?".
Ở khía cạnh này, ông Điệp gợi nhắc lại quan niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu - người được coi là tiên phong của văn học Đổi mới - rằng người cầm bút cần có đủ dũng khí để đối diện, để phê bình và tự phê bình. Theo ông, đây vẫn là câu chuyện mà đến hôm nay chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ, hành động.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp phát biểu tại hội thảo
"Tầm mỹ học"
Câu hỏi "Văn học Việt Nam khi nào có tác phẩm đỉnh cao?" tiếp tục được nhắc lại nhiều lần trong hội thảo, nối tiếp những trăn trở đã tồn tại từ lâu.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp thẳng thắn nhìn vào hạn chế của văn học đương thời: "Văn chương của chúng ta rất ít chiều sâu triết học và mỹ học. Chúng ta khen nhau vài câu thơ duyên dáng, thông minh. Chúng ta khen nhau một vài chi tiết đắt. Nhưng khi đi xuyên qua những tác phẩm đó, chiều sâu triết - mỹ lại rất ít".
Theo ông, đây là điều không thể xem nhẹ nếu đặt trong so sánh với văn học thế giới: "Thế giới có thể nói về một hạt gạo mà mở ra cả một cánh đồng, nói một chiếc lá mà gợi ra cả một cánh rừng, nói một giọt sương mà gợi ra cả một vũ trụ. Khi nói về những câu chuyện này, chúng ta không tự ti, nhưng cần đặt ra câu hỏi: Tại sao cái nhìn của những nhà văn lớn lại có thể đi qua những cái vi mô để hướng tới cái vĩ mô như thế?".
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp, cái nhìn ấy, tầm vóc ấy, sự chiêm nghiệm ấy chúng ta chưa có. "Chúng ta vẫn thường chỉ dừng lại ở vài tạo dáng, một chút thông minh, một chút dí dỏm… và nghĩ rằng như thế là không yếu kém. Nhưng chúng ta phải đặt nó trong một tầm mỹ học, triết học rộng lớn hơn. Đấy mới là điều chúng ta nên trăn trở".