Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển mạnh mẽ, văn hoá Việt Nam đứng trước nhiều thời cơ cũng như thách thức quan trọng, đòi hỏi những giải pháp, hành động cấp thiết để thúc đẩy sự phát triển và vươn mình trên trường quốc tế, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên "vươn mình" của dân tộc Việt Nam.

Đó là quan điểm củaPGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam - được trình bày tại Hội nghị tổng kết năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025 của ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch với chủ đề Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - Động lực phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam diễn ra hồi cuối năm.

Thời cơ, thuận lợi không ít

Về những thuận lợi, thời cơ chung, theo PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương, các hiệp định thương mại tự do (FTA) và giao lưu văn hóa toàn cầu tạo điều kiện để văn hóa Việt Nam được quảng bá và ghi dấu trên trường quốc tế. Các giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc có thể trở thành công cụ mềm, là tấm hộ chiếu vô song để nâng cao vị thế quốc gia.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ động hội nhập sâu hơn vào quá trình toàn cầu hóa, mở rộng quan hệ đa phương và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia. Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng trong ASEAN và có quan hệ đối tác chiến lược với nhiều quốc gia lớn trên thế giới, tham gia nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, WTO và nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước phát triển, tạo nền tảng cho sự giao thương và hội nhập mạnh mẽ hơn.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Ảnh: TTXVN

Một thuận lợi khác, theo bà Phương, đó là Việt Nam đang chuyển mình từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự tập trung vào công nghệ cao, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo. Chính phủ cũng đưa ra nhiều chính sách để phát triển hạ tầng kỹ thuật số và đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ.

Ngoài ra, với lợi thế dân số trẻ, năng động, có tinh thần khởi nghiệp và không ngừng học hỏi, Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho các công ty đa quốc gia. Lực lượng lao động ở Việt Nam có trình độ và kỹ năng cao giúp thúc đẩy sản xuất và phát triển các ngành dịch vụ như công nghệ thông tin, logistics, và du lịch.

Thêm nữa, Chính phủ đã nỗ lực duy trì ổn định chính trị và thực hiện các cải cách pháp lý để cải thiện môi trường kinh doanh. Điều này tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, giúp Việt Nam trở thành điểm đến an toàn và hấp dẫn.

Và cuối cùng, đầu tư vào giáo dục và bảo tồn văn hóa dân tộc đã giúp tạo ra một nền tảng vững chắc để phát triển bền vững và bảo tồn bản sắc dân tộc, đồng thời góp phần nâng cao hiểu biết và ý thức cộng đồng.

Bên cạnh những thuận lợi chung, bà Phương cũng chỉ ra những thời cơ, thuận lợi cụ thể của văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Đó là sự hội nhập và giao thoa văn hóa toàn cầu đã tạo điều kiện cho sự đa dạng hóa văn hóa, đồng thời giúp văn hóa Việt Nam tiếp cận với nhiều xu hướng, phong cách, và công nghệ mới, làm phong phú thêm bản sắc dân tộc; Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã giúp Việt Nam có thể dễ dàng đưa văn hóa của mình đến với bạn bè quốc tế, đồng thời giúp các thế hệ trẻ Việt Nam tiếp cận với văn hóa truyền thống một cách thuận tiện và sinh động; Chính sách văn hóa của Nhà nước được tiếp tục hoàn thiện giúp các hoạt động văn hóa nghệ thuật được đầu tư phát triển, các giá trị văn hóa truyền thống được quan tâm giữ gìn. Nhà nước ngày càng chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và khuyến khích phát triển văn hóa sáng tạo.

Ngoài ra, môi trường văn hoá, đạo đức, lối sống văn minh, hiện đại tiếp tục được cải thiện và tạo ra những tác động thiết thực; Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với văn hóa Việt Nam qua các sự kiện như nhiều di sản văn hóa được UNESCO công nhận, có các lễ hội truyền thống và sản phẩm văn hóa độc đáo. Điều này giúp nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế và thúc đẩy du lịch văn hóa phát triển.

Một thuận lợi khác nữa là nhận thức về tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng ngày càng cao, nhận thức về giá trị văn hóa dân tộc ngày càng được tăng cường trong các tầng lớp nhân dân.

Cùng với đó, nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng tạo điều kiện cho việc đầu tư vào các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Sức mua và sự quan tâm của người dân đối với các sản phẩm văn hóa cũng gia tăng, giúp ngành văn hóa, giải trí và sáng tạo Việt Nam có thêm động lực để phát triển. Lực lượng nhân lực trẻ đông đảo, sáng tạo và cởi mở, luôn sẵn sàng khám phá, đổi mới và lan toả văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Lực lượng này đang góp phần làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng và hội nhập mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế.

Cuối cùng, theo bà Phương, các ngành công nghiệp văn hoá đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng, mở ra cơ hội thúc đẩy phát triển văn hóa qua các sản phẩm văn hóa đa dạng như phim ảnh, âm nhạc, trò chơi điện tử và thời trang…

Thách thức vẫn còn nhiều

Nhưng cũng theo PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ như đã kể trên, trong giai đoạn này, việc phát triển văn hóa Việt Nam gặp phải những vấn đề mang tính thách thức.

Thách thức đầu tiên, theo người đứng đầu Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia, đó là thách thức trong việc hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về văn hóa.

catru-17378155274711390346734.jpg

Ca trù đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Ảnh: TTXVN

Bà Phương phân tích: "Nhiều vấn đề trong thể chế, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực văn hóa cần được tiếp tục hoàn thiện như: chính sách và pháp luật về thuế trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm nghệ thuật và thị trường, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hành lang pháp lý để thúc đẩy sự tham gia của những đối tác và nguồn lực vào phát triển văn hóa cũng cần được hoàn chỉnh, như vấn đề hợp tác công tư trong văn hóa chưa được đề cập đến trong Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Việc thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa qua việc ban hành những thể chế và chính sách mới phù hợp hơn cũng là một vấn đề mang tính thách thức đặt ra trong giai đoạn kỷ nguyên mới này".

Bên cạnh đó là thách thức trong việc chuyển đổi mô hình, từ quản lý tập trung sang mô hình phân cấp quản lý văn hóa. Theo bà Phương, mô hình quản lí của Chính phủ cần chuyển từ quản lý trực tiếp sang gián tiếp, quản lý vi mô sang vĩ mô, từ quan niệm làm văn hóa sang quản lý văn hóa.

"Việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 33-NQ/TW và các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ có lúc, có nơi còn chậm, chưa đồng bộ. Chưa có chính sách đột phá trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ văn nghệ sĩ tài năng; chưa thu hút được người có năng lực vào các cơ quan tham mưu, cơ quan hoạch định chính sách cho văn hóa nghệ thuật. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật chưa đúng tầm, đúng mức. Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật ở một số lĩnh vực còn khó khăn, hạn chế" - Bà Phương nêu rõ.

Thêm nữa, nhiều hệ giá trị văn hóa cũ vẫn tồn tại ở một bộ phận người dân mặc dù không còn phù hợp với xã hội và nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hoá của Việt Nam hiện nay. Xung đột giá trị thường xuyên diễn ra do nhiều giá trị tốt đẹp cần hướng tới chưa thực sự được khẳng định trong thực tiễn, trong bối cảnh chuyển đổi ngày càng phức tạp.

Cùng với đó, cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý đối với đào tạo lĩnh vực văn hóa nghệ thuật còn có những bất cập ảnh hưởng đến hoạt động đào tạo… Việc hợp tác, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, giữa các cơ quan, đơn vị, giữa các bộ, ngành nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo và đơn vị sử dụng nhân lực chưa thực sự chặt chẽ. Thực trạng hiện nay là số lượng sinh viên theo học các ngành văn hóa và nghệ thuật có chiều hướng sụt giảm, nhất là với những lĩnh vực nghệ thuật truyền thống. Trong giai đoạn sắp tới, dự báo nguồn nhân lực văn hóa nghệ thuật có thể gặp nhiều thách thức trong việc đáp ứng sự lớn mạnh của các ngành công nghiệp văn hóa trong tương lai.

Bà Phương còn chỉ ra thách thức về ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Cụ thể, xét riêng về công nghệ thì trong lĩnh vực văn hóa mới chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận những công nghệ trung bình của thế giới. Việc nghiên cứu và phát triển những công nghệ mới và hiện đại khó thực hiện được do đặc thù của ngành chưa phù hợp cho việc phát triển những công nghệ như vậy…

Hoạt động nghiên cứu khoa học với những dự án, chương trình lớn với quy mô dài hạn cũng không thật sự đủ nguồn lực tài chính để thực hiện do chi ngân sách sự nghiệp cho khoa học và công nghệ giảm dần từ nhiều năm qua và chưa bao giờ đạt được mức 2% GDP như quy định của pháp luật. Đây là vấn đề khó giải quyết và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp văn hóa trong tương lai.

Cuối cùng, theo bà Phương, đó là thách thức về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa thành một ngành kinh tế mũi nhọn, tổng hợp của Việt Nam.

"Công nghiệp văn hoá từ năm 2016 đã ngày càng phát triển mạnh mẽ và có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế. Tuy nhiên, thách thức trong việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa hiện nay chính là việc thiếu hụt nguồn nhân lực có năng lực kinh doanh, điều hành và quản trị những doanh nghiệp văn hóa. Quy mô vốn của những doanh nghiệp văn hóa còn nhỏ, khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài còn thấp" – theo PGS-TS Nguyễn Thị Thu Phương.

Thực trạng hiện nay là số lượng sinh viên theo học các ngành văn hóa và nghệ thuật có chiều hướng sụt giảm, nhất là với những lĩnh vực nghệ thuật truyền thống.

70 năm Giải phóng Thủ đô: 'Triển lãm Hà Nội trong tôi 2024' một Thủ đô vươn mình bứt phá

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022