Nỏ liên châu thời Âu Lạc là một chủ đề đã được tìm hiểu và thảo luận từ lâu. Đến năm 2007, có một bước nhảy vọt: Ban Lãnh đạo Bảo tàng Lịch sử Quân sự đặt vấn đề với Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á thực hiện một đề tài nghiên cứu và thực nghiệm khoa học nghiêm chỉnh, nhằm chế tạo ra một nỏ liên châu gần gũi nhất với những tư liệu đương thời và với thực tiễn nhu cầu của việc bảo vệ thành Cổ Loa trước nguy cơ xâm lược từ bên ngoài.
Xem chuyên đề Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất TẠI ĐÂY
Tác giả buổi "rì rầm" hôm nay chính là người đã phụ trách và trực tiếp tổ chức thực hiện đề tài đó. Việc đầu tiên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu và phục dựng là loại nỏ lớn có thể bắn một lần ra nhiều mũi tên dựa trên những thành tựu kỹ thuật đương thời (thế kỷ 3 trước Công nguyên ở miền Bắc Việt Nam).
Những con số huyền thoại ghi chép một lần bắn nỏ xuyên chết 300 hay 3.000 quân địch trong các sách sử về sau đều chỉ toát lên một điều, đó là loại nỏ "liên châu" (mỗi lần bắn ra nhiều mũi tên). Dựa trên phát hiện khảo cổ học và ghi chép trong sách sử thì vào khoảng 2.000 năm trước, loài người đã biết đến hai kiểu máy bắn nỏ liên châu.
Một trong những mô hình máy nỏ thực nghiệm (loại ba cánh cung) năm 2007 của Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á
Kiểu thứ nhất thuộc sáng chế vũ khí các đế quốc Hy La, Ba Tư vùng Địa Trung Hải mang tên Catapult, với cánh nỏ tạo lực bật lớn và bệ đỡ có thể đặt nhiều mũi tên hoặc một mũi tên thật lớn. Năm 184 trước Công nguyên, hải quân của Hannibal đã sử dụng những dàn nỏ này trên các chiến thuyền La Mã.
Kiểu thứ hai phổ biến ở phương Đông, ghi nhận trong thế giới các nhóm tộc phi Hoa như Sở và Bách Việt thuộc Đông Nam Á cổ đại. Đó là những bệ nỏ mang cánh cung lớn, rộng vài ba mét, bắn những mũi tên uy lực. Đây cũng là vùng xuất hiện máy nỏ (cơ nỏ) sớm đúc bằng kim loại từ thế kỷ 4 - thế kỷ 5 trước Công nguyên. Nỏ liên châu được nhắc đến sớm nhất gắn với An Dương Vương, Cao Lỗ ở nước Âu Lạc (thế kỷ 3 trước Công nguyên); hay được Gia Cát Lượng mô tả chi tiết vào thế kỷ 3 sau Công nguyên từ bộ nỏ liên châu của Mạnh Hoạch (thủ lĩnh một nhóm tộc Bách Việt thuộc địa bàn nước Dạ Lang cũ).


Hình trái: mô hình nỏ phối hợp kiểu catapul Địa Trung Hải. Hình phải: Thực nghiệm bắn xa 120m trên cây nỏ phối hợp kiểu Gia Cát Lượng với nỏ Tây Nguyên và Mông - Dao, Mường
Nỏ liên châu của Cao Lỗ hay của Mạnh Hoạch đều dựa trên tư duy và kỹ thuật nỏ truyền thống trong khu vực. Chúng tôi đã tập hợp được bốn nhóm nỏ truyền thống ở vùng Bắc Đông Dương và Trường Sơn, Tây Nguyên cũ - nỏ Tày Thái, nỏ Mông - Dao, nỏ Mường, nỏ Tây Nguyên - và nhận ra nguyên lý cơ bản đều giống nhau. Tuy nhiên, kiểu tạo ngàm hãm, lẫy bẫy tự động của các nhóm tộc Tây Nguyên và Mông - Dao đặc biệt phong phú. Tôi đã quyết định gom các nỏ Tây Nguyên và Mông - Dao đưa cho nhóm thợ người Mường ở Kim Bôi cùng tổng hợp để tạo ra dàn nỏ liên châu bắn một phát 5 mũi tên.
Về mặt khảo cổ học, chúng tôi có những lẫy nỏ đồng sớm, thế kỷ 3 - thế kỷ 4 trước Công nguyên và lẫy nỏ đồng trước - sau Công nguyên. Như đã nói ở bài trước, về nguyên lý, hai loại lẫy nỏ này đều giống nhau: dùng cơ chế ngàm, hãm, đẩy nhả để giữ và bật dây cung. Nhờ đúc bằng kim loại, bộ máy nỏ có độ bền chắc và độ chính xác cao hơn nhiều so với tre gỗ, xương, sừng, ngà.

Người Đông Sơn Lạc Việt ở Giao Châu (Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa) miệng ngậm tên, chân đạp cánh cung, hai tay kéo căng dây nỏ
Tuy nhiên, tôi không nghĩ Cao Lỗ/Nỗ đã phát minh ra những lẫy nỏ này, chúng đã có từ trước và sau thời Cao Lỗ/Nỗ. Sáng chế của ông có thể gắn với việc quan sát cơ chế thò ra, tụt vào nhanh gọn của đầu và tứ chi con rùa để tạo ra loại lẫy nỏ có thể điều hành một lúc nhiều dàn nỏ. Điều này gắn với câu chuyện thần thoại Rùa Thần giúp An Dương Vương xây thành và tặng nhà vua một móng rùa làm lẫy nỏ.
Nỏ liên châu gắn với việc phòng vệ thành, lũy chống tấn công của kẻ địch. Vì vậy nhu cầu bắn nhanh ra nhiều mũi tên một lúc được đưa lên hàng đầu. Nhưng, phải khắc phục được nhược điểm của nỏ là thời gian của hai loạt bắn dài hơn so với bắn cung. Trong thực nghiệm, chúng tôi cần 3 phút để kéo dây cung và đặt dàn 5 mũi tên, trong khi để bắn lượt hai, các cung thủ chỉ cần nửa phút. Sáng chế của Cao Lỗ/Nỗ hẳn còn ở điểm này nữa: tạo ra cơ chế rút thời gian giữa hai loạt bắn! Bài toán này, trong chương trình nghiên cứu 2007 và cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa giải quyết được.
***
Cuối cùng hai chiếc nỏ liên châu cũng được chúng tôi hoàn tất: Một chiếc theo mẫu Mạnh Hoạch dựa trên những yếu tố dân tộc học khai thác từ nhóm nỏ Tây Nguyên và Mông - Dao, Mường. Chiếc kia tạo hai dàn cánh cung và bắn theo cơ chế Catapul của Hy Lạp, La Mã.
Lãnh đạo Bảo tàng Lịch sử Quân sự và Cục Quân khí đã chọn mẫu thứ nhất. Đây là chiếc nỏ lớn với chiều rộng cánh cung 3m, dàn bệ đỡ mũi tên có 5 rãnh và bộ lẫy hãm, mở dây cung. Cánh cung được làm bằng loại tre đặc biệt mọc ở độ cao 800 - 1200m. Bệ đỡ làm bằng gỗ táu, có ba chân chống có thể điều chỉnh được góc bắn, cao ngang bụng người cao 160 - 170cm. Dây cung bện bằng sợi gai, đường kính 6 - 8mm.
Mũi tên làm theo công thức "bay đạn đạo" dựa trên thống kê trọng lượng mũi tên đồng khai quật được để quyết định độ lớn và độ dài của cán cũng như vè đuôi (chi tiết về phát hiện khuôn, mũi tên và cách chế mũi tên đồng ba cạnh, cách tạo phần thân cán và vè đã bị mất sẽ được chúng tôi dành riêng cho buổi "rì rầm" tuần sau). Kết quả, nỏ thực nghiệm đã bắn tên mũi đồng, thân cau dài 80cm đi xa 120m. Khi bắn dàn 5 mũi tên đã đạt hiệu quả đồng loạt sát thương ở cự ly 20 - 25m.
"Nỏ liên châu gắn với việc phòng vệ thành, lũy chống tấn công của kẻ địch. Vì vậy nhu cầu bắn nhanh ra nhiều mũi tên một lúc được đưa lên hàng đầu. Nhưng, phải khắc phục được nhược điểm của nỏ là thời gian của hai loạt bắn dài hơn so với bắn cung" - TS Nguyễn Việt.
(còn tiếp)


































