Việc nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được UNESCO đưa vào danh mục Di sản Thế giới đã khẳng định vị trí của một dòng tranh lâu đời tại Việt Nam. 

Để rồi, trong niềm vui ấy, chúng ta vẫn phải nhắc tới một thực tế: để thực sự tồn tại và phát triển, dòng tranh này cần có những khán giả mới, cũng như được gắn với công nghệ, tri thức hiện đại và thị trường đương đại, trên nền tảng giữ gìn bản sắc của mình.

Nhìn lại, lịch sử phát triển của tranh Đông Hồ cho thấy di sản này chỉ thật sự có sức sống khi tìm được sự kết nối trực tiếp với xã hội. Thời hưng thịnh đầu thế kỷ XX, làng tranh Đông Hồ hòa cùng nhu cầu đón Tết và đời sống sinh hoạt ở các vùng miền Bắc, nên có tới 18 xóm với 17 dòng họ cùng theo nghề. Để rồi, tới những năm cuối thế kỷ, dòng tranh suy yếu rất nhanh trong quá trình đô thị hóa và thay đổi thị hiếu: thói quen treo tranh Tết giảm sút, còn mô hình sản xuất khép kín, vốn phù hợp với làng xã nông thôn, lại tỏ ra thiếu khả năng thích ứng với thị trường.

Tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ xưa thường được sản xuất vào cuối năm để phục vụ nhu cầu trang trí và thờ cúng của các gia đình Việt dịp tết Nguyên đán (2025). Ảnh: Hoàng Hiếu - TTXVN

Dù vậy, ít người biết, trước đó, tranh Đông Hồ lại từng có lúc phát triển tốt theo một mô hình hơi khác. Tổ tranh dân gian trong Hợp tác xã Song Hồ được khôi phục vào thập niên 1960, thu hút nhiều nghệ nhân. Và hệ đề tài của tranh trở nên rộng hơn: ngoài các mẫu quen thuộc, nghệ nhân còn làm tranh về đề tài hiện đại, thậm chí làm dạng "truyện tranh" từ các cảnh của Truyện Kiều, Thạch Sanh, Lưu Bình - Dương Lễ... hoặc các "biến thể" vẽ mâm ngũ quả, án thư, câu đối được tạo ra để đáp ứng nhu cầu.

Tranh được làm đều đặn, bán tại miền Bắc, xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Năm 1971, bộ tranh Đông Hồ truyền thống còn được trao Huy chương vàng tại Hội chợ sách quốc tế tại Leipzig. Những tìm tòi ấy diễn ra trong bối cảnh kinh tế khó khăn nhưng vẫn cho thấy sức sống nội tại của dòng tranh khi không đứng ngoài đời sống và tương tác với nhu cầu thật của xã hội.

***

Và nhìn lại, vài năm qua, chúng ta cũng đã có những tín hiệu tích cực từ các nỗ lực sáng tạo nhằm đưa tinh hoa của tranh Đông Hồ vào sáng tác tạo hình mới. Điển hình, năm 2018, dự án đương đại hóa tranh Đông Hồ của Highlands Coffee được triển khai, tiếp nối ý tưởng của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế về việc đưa chi tiết mới vào kỹ thuật truyền thống và kết nối nhiều họa sĩ trẻ để tạo ra loạt tranh mới dựa trên những hình mẫu quen thuộc.

vnapotaltamhuyetgingiunghelamtranhdangiandongho8462632-17654049837302019586488.jpg

Gia đình nghệ nhân ưu tú Nguyễn Đăng Chế là một trong 3 gia đình vẫn hàng ngày giữ nghề, bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN

Với dự án này, các tác phẩm mang phong cách mới được trưng bày tại hệ thống cửa hàng cà phê của Highlands giúp tranh Đông Hồ tiếp cận công chúng trẻ ngay trong không gian quen thuộc của họ. Dù vẫn có những hạn chế, đó là một cách làm bài bản cho thấy khả năng kết nối giữa di sản và thị trường hiện đại.

Hoặc, họa sĩ trẻ 9X Xuân Lam là một trường hợp khác. Say mê dòng tranh dân gian này, anh lặn lội tìm hiểu tư liệu từ nhiều nguồn rồi vẽ lại bằng cách phối màu và tạo hình mới. Không dừng ở tranh treo, Lam đưa ngôn ngữ thị giác của Đông Hồ vào các sản phẩm ứng dụng như túi vải, sổ, lịch, bao lì xì và cả bình phong, giúp dòng tranh hiện diện tự nhiên hơn trong nhịp sống thường ngày.

Những ví dụ đó cho thấy tranh Đông Hồ có khả năng bước qua ranh giới truyền thống để tiếp cận người xem mới mà không đánh mất bản sắc cốt lõi. Câu chuyện còn lại thuộc về những chiến lược dài hạn để quá trình này phát triển đúng hướng. Tại đó, công nghiệp văn hóa, với những ưu thế của công nghệ và tư duy mới, có thể mở ra lối đi cho tranh Đông Hồ trong quảng cáo, truyền thông, thời trang hay sản phẩm lưu niệm có tính thẩm mỹ cao. Tất nhiên, dù ứng dụng theo cách nào, tinh hoa của dòng tranh vẫn phải được bảo tồn để giữ được cốt cách của mình.

XEM THÊM TIN TỨC VĂN HOÁ TẠI ĐÂY

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022