Tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO đã thông qua Quyết định số 20.COM 7.a.1 ghi danh di sản Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Sự kiện này không chỉ là niềm tự hào của cộng đồng Bắc Ninh mà còn khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc gìn giữ sự đa dạng văn hóa nhân loại, đảm bảo dòng chảy văn hóa truyền thống được tiếp nối bền vững.
"Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Cùng với tranh Hàng Trống và tranh Kim Hoàng, tranh dân gian Đông Hồ là một trong ba dòng tranh dân gian nổi tiếng nhất Việt Nam. Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ ở khu phố Đông Khê, phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ra đời cách đây khoảng 500 năm.
Chủ đề của tranh Đông Hồ thường gồm tranh thờ, chúc tụng, tranh lịch sử, tranh sinh hoạt, tranh phong cảnh, gắn với tập tục treo tranh vào ngày Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, thờ cúng tổ tiên và thờ thần. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen… cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân nghĩa, Vinh hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn… Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối với cuộc sống.
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa, làng tranh dân gian Đông Hồ hăng say giữ lửa nghề. Ảnh: Thanh Thương- TTXVN
Không chỉ hấp dẫn bởi nội dung, tranh Đông Hồ được các nhà nghiên cứu mỹ thuật đánh giá là những tác phẩm nghệ thuật thực sự với cách phối màu độc đáo, cách in nét, in mảng đặc trưng, mang vẻ đẹp mỹ thuật dân dã, mang mỹ cảm trong ca dao và thi ca. Thi sĩ Hoàng Cầm từng viết câu thơ: "Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp". Chính cái "màu dân tộc" và "giấy điệp" đã làm nên thần thái của dòng tranh này và cùng với các dòng tranh dân gian khác làm giàu cho kho tàng di sản mỹ thuật của Việt Nam.
Với những chất liệu hoàn toàn tự nhiên, tranh Đông Hồ có màu sắc gần gũi, ấm áp rất đặc biệt mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có. Chỉ với vài màu cơ bản: đen, vàng, đỏ, xanh, các nghệ nhân đã làm nên những bức tranh hết sức sống động, hài hòa và vô cùng độc đáo.
Quy trình sản xuất tranh gồm nhiều công đoạn: sáng tác mẫu, khắc ván in, làm màu, in tranh. Tất cả các khâu làm tranh đều được làm thủ công hoàn toàn. Vì thế, mỗi bức tranh đều thấm đậm tình cảm và sự chăm chút của những nghệ nhân.
Công việc sáng tác mẫu tranh tốn khá nhiều thời gian, trước tiên phải chọn lựa đề tài có ý nghĩa, nội dung sâu sắc, mầu sắc hài hòa, bố cục chặt chẽ và có giá trị nghệ thuật cao. Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho, để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng, để người thợ khắc, đục ván theo đúng mẫu. Việc sáng tác mẫu tranh không chỉ của riêng các nghệ nhân mà thường là kết quả chung của một làng tranh, nhiều thế hệ. Do đó, trong tranh Đông Hồ có trường hợp một mẫu nhưng nhiều dị bản, hoặc một mẫu tranh cũng có đến hai, ba cách phân bố màu khác nhau.
Mẫu vẽ xong được khắc lên ván in. Đây là khâu có ý nghĩa quyết định đến giá trị tác phẩm. Thông thường mỗi ván chỉ in được một màu. Do đó, số ván cần phải khắc bằng chính số màu trong tranh. Ngoài ra, còn phải có một bản khắc nét để khi in sẽ tạo viền ngăn cách giữa các màu tranh.
Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Oanh hằng ngày vẫn gìn giữ, truyền dạy tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: Thanh Thương- TTXVN
Sau khi hoàn tất việc khắc ván là công đoạn in tranh. Giấy dùng in tranh là loại giấy dó (làm từ vỏ cây dó) với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Loại giấy này được quét lên một lớp hồ điệp (làm từ bột vỏ sò) để tạo nét sáng óng ánh đặc thù. Bên cạnh đó, màu in cũng là một nét vô cùng độc đáo trong quá trình sáng tạo, khám phá, tìm tòi và ứng dụng các nguyên vật liệu gần gũi từ tự nhiên vào hoạt động nghệ thuật: màu xanh từ lá chàm, màu đỏ từ sỏi son, màu vàng từ hoa hòe và quả dành dành, màu trắng từ bột sò điệp bị phong hóa, màu đen từ tro lá tre, rơm nếp... Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, chất giấy… Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia truyền của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu mà tranh Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu.
Tranh được in úp ván với 5 màu cơ bản trên giấy dó đã được phủ một lớp hồ điệp. Các màu được in theo nguyên tắc màu đỏ in trước, tiếp đến màu xanh, vàng, trắng. Ván nét màu đen in cuối cùng để hoàn thiện bức tranh.
Với những giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo, năm 2013, nghề làm tranh Đông Hồ được tôn vinh là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia.
Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
Ngày nay, cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đứng trước nguy cơ mai một rất cao, chỉ còn lại một vài gia đình nghệ nhân theo nghề tranh, gìn giữ di sản. Do vậy, việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy nghề làm tranh dân gian Đông Hồ với tư cách là một di sản quý của văn hóa dân tộc đang đặt ra vô cùng cấp thiết.
Tỉnh Bắc Ninh đưa ra nhiều giải pháp quyết liệt nhằm bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm tranh dân gian Đông Hồ và dòng tranh quý này.
Anh Nguyễn Hữu Đạo, hậu duệ gia đình có nhiều năm làm tranh dân gian Đông Hồ khắc bản khắc làm tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN
Tháng 7/2014, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Đề án "Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ giai đoạn 2014-2020, định hướng đến 2030" nhằm khẳng định, gìn giữ và phát huy giá trị nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ. Đồng thời, tỉnh xác định hiện trạng và nguy cơ mai một của dòng tranh này, nâng cao nhận thức, hành động của chính quyền, nhân dân địa phương trong việc bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa độc đáo của tranh dân gian Đông Hồ.
Năm 2017, nghề tranh Đông Hồ bắt đầu được lập hồ sơ quốc gia đề nghị UNESCO đưa vào danh sách các Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Ngày 10/5/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Công văn số 1918/BVHTTDL-DSVH về việc đồng ý xây dựng hồ sơ "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" trình UNESCO. Thực hiện Công văn trên, UBND tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam triển khai thực hiện xây dựng Hồ sơ "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" theo quy định và hướng dẫn của Công ước 2003, UNESCO để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Anh Nguyễn Hữu Đạo, hậu duệ gia đình có nhiều năm làm tranh dân gian Đông Hồ khắc bản khắc làm tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN
Tháng 3/2020, Việt Nam đệ trình UNESCO hồ sơ "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" để được xem xét ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Năm 2023, tỉnh Bắc Ninh đã khánh thành Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ. Công trình không chỉ là một trung tâm bảo tồn mà còn được ví như một bảo tàng sống động, nơi lưu giữ và phát huy giá trị của nghệ thuật tranh Đông Hồ. Điểm nhấn của Trung tâm là Nhà Trưng bày nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được đặt ở trung tâm. Khu trưng bày nghề làm tranh dân gian Đông Hồ có diện tích trên 500 m2, với hơn 1.000 tài liệu, hiện vật được nghiên cứu, sưu tầm từ các gia đình nghệ nhân và nhân dân địa phương. Trong đó, tiêu biểu như bản khắc gỗ, mẫu tranh cổ có tuổi đời hàng trăm năm; các phim, ảnh tư liệu về nghề làm tranh phục vụ công tác trưng bày, giới thiệu.
Khách tham quan tranh Đông Hồ. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN
Từ tháng 11/2023 đến nay, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức các chợ phiên tái hiện không gian chợ tranh Đông Hồ tại Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ. Tại đây, du khách không chỉ được ngắm nhìn, mua về những bức tranh dân gian mà còn được tìm hiểu về nghề làm tranh, từ khâu nguyên liệu cho tới các công đoạn để có được một bức tranh hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, Trung tâm Bảo tồn di tích và xúc tiến du lịch Bắc Ninh cũng đã kết nối, tổ chức chương trình ký kết về phát triển du lịch, quảng bá tranh dân gian Đông Hồ với một số công ty du lịch để đưa du khách đến với làng tranh ngày một nhiều hơn.
Đặc biệt, trong các cuộc tiếp đón khách của tỉnh Bắc Ninh và các đoàn ngoại giao quốc tế ở Trung ương, tranh Đông Hồ đã được chọn làm quà tặng quốc gia. Tranh Đông Hồ liên tục xuất hiện trong các triển lãm, sự kiện văn hóa tại nhiều quốc gia như: Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ... trở thành nhịp cầu gắn kết bạn bè quốc tế với văn hóa Việt Nam.

Tranh Đàn lợn âm dương
Việc UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp có ý nghĩa sâu sắc đối với cộng đồng thực hành và công chúng Việt Nam. Trước hết, nó khẳng định giá trị lịch sử - nghệ thuật độc đáo của nghề, đồng thời tạo động lực để các nghệ nhân tiếp tục gìn giữ kỹ năng, bí quyết nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một. Bên cạnh đó, việc ghi danh giúp nâng cao nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của di sản, thúc đẩy sự quan tâm của thế hệ trẻ và khuyến khích các hoạt động hỗ trợ bảo vệ từ tổ chức đến cộng đồng. Hơn nữa, đây cũng là cơ hội để quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam ra thế giới, góp phần nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc và bảo vệ tính đa dạng của bản sắc văn hóa Việt.
Ngay sau thời khắc ghi danh, thay mặt Việt Nam và cộng đồng thực hành di sản nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam Hoàng Đạo Cương và Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bắc Ninh Mai Sơn cam kết thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ các giá trị của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.
Với việc nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, đến nay Việt Nam có 17 di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Nhã nhạc Cung đình Huế; Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Ca Trù; Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc; Hát Xoan Phú Thọ; Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca Ví, Dặm ở Nghệ Tĩnh; Nghi lễ và trò chơi Kéo co; Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài Chòi ở Trung Bộ; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái; Nghệ thuật Xòe Thái; Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm; Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam và nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.



































