Trong Hội nghị "Hùng Vương dựng nước" lần thứ 3, năm 1971, giáo sư Đặng Nghiêm Vạn đã khiến cả hội nghị sửng sốt trước thông tin về hiện tượng uống bằng mũi của người Mảng, gắn với ghi chép về tục "tị ẩm" trong truyền thuyết thời Hùng Vương. Bài viết có sử dụng tư liệu và hình ảnh của các đồng nghiệp như Nguyễn Duy Thiệu và sưu tập CQK.

Xem chuyên đề Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất TẠI ĐÂY

Đây là một ghi chép rất ngắn ngủi được tác giả Lĩnh Nam trích quái chép lại khi nói đến phong tục thời Hùng Vương. Theo đó, việc có một số dân tộc thiểu số hiện sinh sống ở nước ta vẫn duy trì việc đưa dung dịch như rượu, nước gia vị cay… qua đường mũi, như một dạng "ẩm thực" kỳ lạ.

Từ những chiếc muôi chế bằng vỏ quả nậm bầu thời Đông Sơn

Trở lại với mô tả của Đặng Nghiêm Vạn, cũng như quan sát thực tế của chúng tôi tại một lễ hội người Mảng, thì dung dịch được dùng để đưa qua mũi chủ yếu có hai loại: Thứ nhất là nước gia vị cay gồm gừng, tỏi, sả, ớt, hạt tiêu (mắc khén)… Thứ hai là rượu thuốc (rượu ngâm với một số loại vỏ cây thơm, nóng…). Lễ hội thường diễn ra vào mùa đông, dịp Tết, thảng hoặc được dùng trong tiệc cưới xin, ma chay, thành niên… để vừa chống lạnh, vừa dễ nâng cấp độ say sưa đê mê.

Ngoài nồi chậu đựng dung dịch cay đã lọc tạp chất kích thước lớn, dụng cụ đưa dung dịch đó qua mũi phổ biến là dạng muôi có lỗ thông với tay cầm được khoét rỗng như một ống dẫn. Tay cầm này có thể bằng tre nứa, nhưng tiện lợi và phổ biến nhất được làm từ quả bầu nậm, với phần tay cầm là cuống thu nhỏ sẵn có.

Muôi bầu bằng đồng có lỗ thủng ở chuôi dùng cho “tị ẩm”

Sưu tập mà chúng tôi đang lưu giữ và nghiên cứu gồm 10 hiện vật muôi bầu đã gia công và chưa gia công, do người dân khai quật, thu gom từ 2022 đến 2024 trong các mộ thân cây khoét rỗng Đông Sơn. Hiện công việc ngâm tẩm, sấy khô đã hoàn tất. Bài viết này nhằm thông báo tóm tắt kết quả nghiên cứu từ sưu tập muôi quả bầu đó, có mở rộng so sánh với một số hiện vật muôi đồng Đông Sơn đúc theo dáng muôi bầu có lỗ thủng ở chuôi, tương tự dụng cụ "tị ẩm".

Sưu tập 10 hiện vật bầu nậm đang khảo sát có hai chiếc còn nguyên vẹn, chưa mở miệng muôi và chưa ngắt, khoét cuống. Hai chiếc này gồm một chiếc lớn, dài 42 cm, và một chiếc nhỏ, dài 21 cm - có thể là nguyên liệu chôn theo chủ nhân.

Số còn lại đều khoét miệng muôi ở phần phồng rộng nhất quả bầu, với kích thước tương đương 6/10 đường kính bụng bầu ở nơi rộng nhất. Đa số hình khoét là hình tròn, hơi bầu dục. Duy nhất một chiếc được khoét hình tim dạng "con cơ", với eo khuyết nhọn hướng ở phần chuôi cán.

Trong số 8 muôi bầu đã khoét miệng, có 3 chiếc không thủng cuống, 2 chiếc được khoét thủng ở đúng vị trí cuống rụng, 1 chiếc được cắt cụt hẳn phần cuống tạo lỗ thủng to, đường kính ngoài 1,8 cm. Loại này khi nước đong đầy bầu, dốc theo đường ống tay cầm sẽ tạo tia nước thẳng theo trục tay cầm. Còn lại là 2 chiếc để cuống kín nhưng được khoét lỗ ở rìa cạnh; khi dung dịch dốc ngược ra ống tay cầm sẽ tạo vòi nước ngang vuông góc với trục tay cầm, rất tiện lợi cho việc đưa dung dịch cay vào mũi.

"Những bằng chứng di vật Đông Sơn bằng đồng xác nhận tính phổ cập của lối uống bằng mũi và các dụng cụ chuyên biệt của tục này" - TS Nguyễn Việt.

Lượng dung dịch tạm đong trong mỗi muôi bầu, không kể ống tay cầm, dao động từ 200 ml đến 500 ml tùy độ lớn quả bầu. Trong nhiều minh chứng (hình vẽ và tượng khối trên đồ đồng Đông Sơn, Điền) cho thấy muôi bầu nói riêng và muôi đồng nói chung đương thời chủ yếu dùng để múc rượu, dung dịch cay gây say. Muôi bầu kín chuôi dùng để múc rót ra cốc, bát khác cho người dùng. Muôi trổ thủng lỗ ngang hay dọc ở chuôi đều là muôi chuyên dùng cho việc uống bằng mũi.

Tục "tị ẩm" thời Hùng Vương giờ không chỉ là truyền thuyết mà đã được chứng thực qua tư liệu khảo cổ học.

Đến những muôi tị ẩm bằng đồng

Trong khi chỉnh lý sưu tập CQK (California, Mỹ) về đồ đồng Đông Sơn, tôi nhận ra hai chiếc muôi đồng hình bầu nậm có bằng chứng rót dung dịch qua tay cầm.

Một chiếc nhỏ, dài 15 cm, rộng nhất ở bầu muôi 7 cm, miệng muôi 5 cm. Trên tay cầm hướng với chiều ngửa miệng muôi có hình một con bò đúc liền với muôi. Phần cuống muôi uốn cong xoắn tròn (spiral). Tại đó có một lỗ thủng; khi múc nước, dốc theo ống tay cầm sẽ tạo dòng nước tuôn qua lỗ đó.

2b-1760569795711649582568.jpg2d-1760569795813353987557.jpg
2a-1760569795756956926957.jpg2c-17605697958791476573749.jpg

Muôi bầu trong mộ thân cây khoét rỗng Đông Sơn vùng nam Hà Nội có lỗ trích ngang rất độc đáo

Dạng muôi đồng "tị ẩm" này không đơn chiếc. Chúng tôi bắt gặp tiêu bản thứ hai là một dụng cụ Đông Sơn muôi bầu nậm khác bằng đồng có lỗ thủng ở chuôi, thuộc sưu tập của Phó Đức Tùng (Xuân Mai, Hà Nội).

Đó là một chiếc muôi nhỏ (dài 12 cm, rộng bầu 5 cm), trên phần tay cầm hướng ngửa theo chiều mở miệng bầu cũng có hình một con bò đúc liền. Chuôi tay cầm có vệt mờ của vòng cuốn tròn spiral và một lỗ thủng đường kính 0,8 cm, có thể dễ dàng đưa dung dịch từ muôi ra ngoài.

Loại muôi bầu thứ hai là muôi nghi lễ hiếm có, từng được trưng bày tại Bảo tàng Singapore, nhà hàng Trống Đông Sơn (phố Trần Đăng Ninh, Hà Nội) và trong sưu tập CQK (California, Mỹ)…

Đây là loại muôi bầu nậm dùng trong lễ nghi. Phần muôi chứa không lớn (8 - 10 cm), miệng mở khoảng 6 - 7 cm, nhưng phần tay cầm kéo dài tới 50 cm. Trên đó trang trí hình chim bồ nông với các hình khắc chìm kỷ hà đặc trưng Đông Sơn. Dạng muôi lễ nghi này đều có chân chống trong tư thế trang trọng để trên bàn thờ.

Chiếc muôi bầu thuộc sưu tập CQK có tay cầm đặc biệt ở chỗ có thể tháo ra làm hai phần. Thợ đúc đã chế riêng phần trên của cuống tay cầm, nơi có vòng uốn spiral, như một nắp đậy - có thể mở ra khi rót nước thiêng dâng thần thánh, hoặc dùng trong lễ nghi "tị ẩm".

Những bằng chứng di vật Đông Sơn bằng đồng xác nhận tính phổ cập của lối uống bằng mũi và các dụng cụ chuyên biệt của tục này.

***

Phát hiện khảo cổ học cùng việc nghiên cứu tỉ mỉ các hiện vật trong khung cảnh thông tin rộng mở (thư tịch và so sánh dân tộc học) đã góp phần xác nhận và soi sáng từng chi tiết cuộc sống, phong tục xưa.

Phát hiện những dụng cụ liên quan đến tục uống bằng mũi ("tị ẩm") được lưu truyền và ghi chép trong sách xưa, nay vẫn tồn tại trong lễ tục của một số dân tộc miền núi, đã giúp khẳng định một nếp sống từng phổ biến trong thời dựng nước thuộc văn hóa Đông Sơn.

(Còn tiếp)

XEM THÊM TIN TỨC VĂN HOÁ TẠI ĐÂY

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022