Đại tá - nhà văn Khuất Quang Thụy đã rời cõi tạm chiều ngày 5/3, gửi lại tuổi 76 (1950-2025), thênh thang viễn du miền mây trắng. Trong ký ức tôi, anh là một nhà văn mộc mạc, giản dị, sống nhân hậu, khoan hòa, chân thật, tử tế…

1. Sinh ngày 12/01/1950 tại làng Thanh Phần, xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (nay là TP Hà Nội) trong một gia đình nho học. Cha ông đã gửi gắm tinh thần hiếu học vào kiến trúc ngôi nhà có thêm biểu tượng cây bút. Tháng 3/1967, chưa kịp thi tốt nghiệp phổ thông, chàng thanh niên xứ Đoài hăng hái xung phong lên đường chiến đấu. Anh được biên chế vào Sư đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng) chiến đấu ở các mặt trận nổi tiếng ác liệt như: Đường 9 - Nam Lào, Quảng Trị, Tây Nguyên... Anh cũng là một trong những người lính có mặt ở Dinh Độc Lập vào ngày 30/4/1975 lịch sử. Thật tiếc, bệnh tật đã vội kéo nhà văn đi ngay trước thềm kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mà anh chính là người trong cuộc, đã góp một phần mang "Toàn thắng về ta" (Tố Hữu).

Nhà văn Khuất Quang Thụy

Năng khiếu văn chương tiềm ẩn trong Khuất Quang Thụy từ sớm và có cơ hội được hiện thực hóa trong đời sống chiến trường. Trải nghiệm cuộc chiến sinh tử nơi trận mạc đã được người lính ghi chép tỉ mỉ, cẩn thận. Đó là chất liệu, vốn sống, nguồn tư liệu quý giúp cho anh viết ký sự, sáng tác thơ và viết truyện ngắn. Thiên hướng văn chương đã tạo nên một sự nghiệp sừng sững, vạm vỡ cho người lính Khuất Quang Thụy.

Sau khi được điều về Phòng Chính trị Sư đoàn 320 làm phóng viên chiến trường, năm 1971, việc gặp nhà văn Cao Tiến Lê tại trại sáng tác ở chiến trường Bắc Quảng Trị đã tạo bước ngoặt quyết định trong sự nghiệp văn chương của anh. Thơ hay văn xuôi đang trong quá trình anh lựa chọn cho đến khi nhà văn Cao Tiến Lê đọc ký sự Lửa và thép cho lời khuyên chân thành: "Cậu viết văn xuôi sẽ thành công đấy". Bài ký sự được tạp chí Văn nghệ Quân đội in ngay sau đó (11/1971) và Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục phát sóng ký sự này.

Năm 1979, anh vào học Trường viết văn Nguyễn Du khóa I cùng các nhà văn, nhà thơ như: Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung Đỉnh, Thái Bá Lợi, Nguyễn Khắc Trường, Lâm Thị Mỹ Dạ... Tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du, năm 1982, anh nhận công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, từ vị trí biên tập viên đến Trưởng ban văn xuôi và Phó Tổng biên tập cho đến khi nghỉ hưu (2009).

Từ môi trường Quân đội, nhà văn Khuất Quang Thụy tiếp tục công việc ở Hội Nhà văn Việt Nam: tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa VIII, IX, X); Phó, rồi Tổng biên tập báo Văn nghệ, Tổng biên tập Vanvn cho đến đầu năm 2024 mới được nghỉ ngơi, dưỡng bệnh.

2. Trong thời gian tìm tài liệu cho luận án "Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước" của mình, tôi thường đến Thư viện Quân đội và gặp gỡ các nhà thơ thế hệ kháng chiến chống Mỹ.

Một lần, đến Nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi gặp nhà văn Khuất Quang Thụy. Trò chuyện với anh lần đầu, tôi đã cảm nhận thấy sự dung dị, chân chất, mộc mạc, chân thành của người lính trong cách nói ôn tồn, điềm tĩnh. Anh sở hữu chất giọng Phúc Thọ đặc sệt. Dường như chất lính trận mạc vẫn quyện bám máu thịt trong người lính văn nghệ.

tacpham-1-17413081391091951732517.jpg

Tác phẩm của Khuất Quang Thụy

Nghe tôi nói về mục đích gặp gỡ các nhà thơ thế hệ kháng chiến chống Mỹ, anh cười hiền hiền, thủng thẳng nói: "Khai thác được nguồn tư liệu đó là quá tốt rồi. Nhưng là người nghiên cứu, chị nên mở rộng phần văn xuôi để thấy diện mạo chung của cả nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó mỗi thể loại thơ, văn xuôi đều có tính đặc thù". Tôi triển khai luận án tiến sĩ có thêm sự gợi ý của nhà văn Khuất Quang Thụy.

Nhà văn nói với tôi tâm huyết cả một đời, anh viết về cuộc chiến trận, về người lính với một nỗi ám ảnh trận mạc ken kín, dày đặc. Viết mãi, viết mãi vẫn thấy mình còn "nợ" nhiều quá: "Dù đã viết nhiều trang nhưng có lẽ vẫn chưa nói hết được những điều mắt thấy, tai nghe...". Thật khó để thoát ra khỏi "từ trường" chiến tranh như chính tâm sự gan ruột: "Khi ở chiến trường, tôi chỉ viết vì một khát khao duy nhất, ghi được càng nhiều càng tốt những kỷ niệm, những con người, những cảnh ngộ, số phận éo le do sự khắc nghiệt của chiến tranh đưa đến. Cả đời chỉ loay hoay viết về cuộc chiến ấy, có lẽ là số phận của thế hệ những người cầm bút từng có những năm cầm súng như chúng tôi...".

Khi có độ lùi thời gian, khi chiến tranh kết thúc, anh mới có điều kiện để hiểu ra, nhận ra một điều sâu sắc rằng: "Cuộc chiến đấu ở mặt trận dù có ác liệt đến mấy thì mới là một nửa cuộc chiến tranh. Vì thế, tôi dành nhiều thời gian để viết nhiều hơn về cái "nửa" còn lại ấy của cuộc chiến từ nhiều góc khác nhau. Một cuộc đời cầm bút chỉ loay hoay trong hai mảng đề tài ấy đã ngợp rồi. Nhưng biết làm sao, đó là số phận của thế hệ những người cầm bút từng có những năm cầm súng như chúng tôi...".

3. Nhà văn Khuất Quang Thụy đã định hình phong cách sáng tác về đề tài chiến tranh và người lính mang tính sử thi. Anh không né tránh mặt trái của chiến tranh mà nhìn trực diện vào nó, tái hiện bằng giọng văn sắc sảo, tinh tế. Trung thành với sự lựa chọn của mình, nên 2 lần nhận Giải thưởng của Bộ Quốc phòng và cao nhất là Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2007) vẫn là cụm tiểu thuyết viết về chiến tranh.

tp-1741308139043539232389.jpg

Anh viết về chiến tranh chân thực, sinh động, khai thác, cài cắm nhiều chi tiết sống động và có cách nhìn logic về chiến tranh. Vượt qua hành trình mô tả, kể chuyện chiến tranh ban đầu, nhà văn đã lý giải về chiến tranh, sự thành bại, cách ứng xử tinh tế, thể hiện trình độ văn hóa, tầm vóc văn hóa của những người tham gia chiến tranh và cuối cùng là sự suy ngẫm, bình luận về chiến tranh...

Viết về Đại thắng mùa Xuân năm 1975, trong tiểu thuyết Trong cơn gió lốc, xen giữa hiện thực khốc liệt, nhà văn trải lòng cùng trang văn đẹp, lung linh miêu tả thiên nhiên trong sáng: "Đêm nay sư đoàn vượt sông Ba, để tiến về giải phóng vùng đồng bằng ven biển Phú Yên. Trăng đang lên. Mặt sông lấp lóa ánh vàng. Núi Trùm Cát dựng sừng sững bên bờ sông thành một khối tím thẫm uy nghiêm, trầm mặc. Dưới ánh trăng, dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ lăn tăn, gợn đều, mơn man vỗ nhẹ vào hai bên bờ cát. Sau một ngày ồn ào náo động, đêm đang lắng dần; không gian như loãng ra, thấm đượm hơi sương, thoảng chút ngọt ngào của hương cây, hương cỏ".

Bức tranh thiên nhiên làm điểm tựa vững chắc cho tâm hồn người lính: "Các phân đội đi đầu đã gói buộc xong đồ đạc và bắt đầu vượt sông. Bóng các chiến sĩ đổ dài trên bãi cát. Những tiếng quẫy nước ùm ùm, nghịch ngợm. Tiếng cười nói ồn ã...".

Ở tiểu thuyết Góc tăm tối cuối cùng, anh lấy bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp để viết về một cuộc chiến tranh không có tiếng súng mà bản thân là người quan sát, chiêm nghiệm, chứ không phải là người trực tiếp tham gia. Chính độ lùi thời gian giúp nhà văn Khuất Quang Thụy có cái nhìn về chiến tranh trầm tĩnh, có cách lý giải thấu đáo, căn nguyên hơn như chính anh chia sẻ "với chiến tranh, người ta không chỉ nhìn thấy cái tốt đẹp, hào hùng mà còn thấy cả cái xấu, cái bi và sự phân hóa của con người trong đó".

Tiểu thuyết Những bức tường lửa viết về thế hệ thanh niên "xếp bút nghiên lên đường ra trận", chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 được nhà văn linh hoạt viết bằng thủ pháp thời gian đồng hiện, trong đó, yếu tố thời gian không kết cấu theo lối tuyến tính mà là sự đan cắt, đa chiều. Những bức tường lửatiểu thuyết được nhà văn Khuất Quang Thụy coi là khởi động lại cho chính mình để đẩy mạch tư duy sáng tác về chiến tranh sang một giai đoạn mới.

Bên cạnh viết văn, ông còn là tác giả, tham gia nhóm tác giả viết kịch bản phim truyện truyền hình như: "Đất và người" (cùng nhà văn Phạm Ngọc Tiến chuyển thể từ Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường), phim Tướng Nguyễn Bình...

Sự nghiệp vạm vỡ, đậm chất lính

Đại tá, nhà văn Khuất Quang Thụy thuộc thế hệ nhà văn tiêu biểu, xuất sắc của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước với một sự nghiệp vạm vỡ, sung sức, đậm chất lính. Các giải thưởng của anh là sự ghi nhận sự đóng góp quan trọng của nhà văn với nền văn học nước nhà: Giải Nhất cuộc thi viết truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (truyện ngắn Anh Sức); 2 lần đoạt Giải thưởng Văn học của Bộ Quốc phòng với tiểu thuyết Không phải trò đùa (1984) và tiểu thuyết Những bức tường lửa (2000); Tặng thưởng năm 2005 của Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Những bức tường lửa (2005) và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho cụm 3 tiểu thuyết: Trong cơn gió lốc, Không phải trò đùaGóc tăm tối cuối cùng (đợt 2, 2007).

Các tác phẩm chính đã xuất bản: Các tiểu thuyết: Trong cơn gió lốc (1980), Trước ngưỡng cửa bình minh (1985), Không phải trò đùa (1985), Những bức tường lửa, Người đẹp xứ Đoài (1991), Giữa ba ngôi Chúa (1989), Góc tăm tối cuối cùng (1990), Đối chiến (2012). Các tập truyện ngắn: Người ở bến Phù Vân (1985), Những trái tim không tàn tật (1986) Thềm nắng (1988), Nước mắt gỗ (1996)...

Nhà văn Nguyễn Khắc Trường, tác giả tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” qua đời

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022