Tác phẩm Chuyện bốn mùa của Từ Nguyên Tĩnh đã xuất hiện khá lâu trong sách giáo khoa bộ cũ, từ những năm 1990. Ở bộ mới, tác phẩm này được in trong Tiếng Việt 2, của cả 3 bộ Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức và cuộc sống, Cánh diều. Nhiều độc giả khá bất ngờ khi tác phẩm này được viết bởi một nhà văn hiếm khi viết cho thiếu nhi, quê xứ Thanh.
Xem chuyên đề Gặp gỡ các tác giả trong SGK TẠI ĐÂY
Nhà văn Từ Công Tĩnh được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2022, vì những tác phẩm thơ và văn xuôi viết về chiến tranh, hậu chiến. Ông đã có cuộc trò chuyện với Thể thao và Văn hóa (TTXVN).
Nhà văn Từ Nguyên Tĩnh
* Là tác giả có nhiều dấu ấn với thơ, văn dành cho người lớn, tác phẩm "Chuyện bốn mùa" được ông "bẻ hướng" từ đâu để viết cho thiếu nhi?
- Ban đầu, Chuyện bốn mùa dài khoảng 1.500 chữ, được viết khá lâu rồi. Thú thật, rôi không nhớ rõ thời điểm, khi ấy còn viết tay, theo đề nghị của một người biên soạn sách giáo khoa. Sau đó tác phẩm được nhóm biên soạn và tôi phối hợp sửa chữa nhiều lần theo yêu cầu, để phù hợp dung lượng. Bản gốc cũng đã lưu lạc từ lâu.
Tôi ít khi viết văn học thiếu nhi, nên dù kể một câu chuyện tưởng đơn giản như Chuyện bốn mùa, nhưng phải sửa tới sửa lui rất nhiều lần, dành không ít tâm sức. Cần thật cẩn trọng với từng con chữ viết ra, vì tác phẩm vào sách giáo khoa, không chỉ để các cháu đọc, mà còn để học.
Với đề bài mà nhóm biên soạn cần: Viết một tác phẩm liên quan đến chủ đề 4 mùa và tôi dễ dàng bắt được cảm hứng với câu chuyện này. Bởi 4 mùa luôn rất gần với trực giác của mỗi người, câu chuyện về 4 mùa rất phong phú.

Khi viết, tôi nghĩ đến hình ảnh bà Đất xuất hiện sao cho hài hước. Khi không giải quyết được điều gì đấy, người ta thường kêu Trời, điều này rất bình thường, nhưng kêu bà Đất thì lại rất bất ngờ, gây hài và tôi nghĩ trẻ con sẽ thích điều ấy. Đây là chi tiết tưởng như không quan trọng gì trong Chuyện bốn mùa, nhưng lại giúp tác phẩm vui lên.
Ngoài ra, nhân vật bà Đất tưởng như vô lý, nhưng lại rất có lý, khi vừa mang tính biểu tượng gần gũi, mang ý nghĩa sinh sôi nảy nở của vạn vật, trong vòng xoay luân chuyển 4 mùa. Có lẽ tôi sẽ viết tiếp về bà Đất. Bà Đất hiền lành, bao dung, giúp vạn vật sinh sôi, bền vững, như bao đời chúng ta vẫn nghĩ về đất mẹ. Đây là một nhân vật thú vị, tạo nhiều cảm hứng với tôi.
* Với "Chuyện bốn mùa", tác phẩm được dùng trong cả bộ sách giáo khoa cũ và mới, hẳn cũng là một dấu ấn trong nghề văn của ông?
- Tôi cho rằng đây là tác phẩm rất nhỏ, nếu nói về đường nghề của tôi. Thậm chí, tôi tự thấy không phải là tác phẩm hay, mà là một tác phẩm gắn với kỷ niệm và không nhạt. Nhưng nó mang lại niềm vui đáng kể, khi năm này qua năm khác lại được theo những độc giả nhỏ đến trường, đến lớp, được nhiều độc giả nhớ tới. Và có thể thấy nhờ Chuyện bốn mùa mà tôi có được sự gắn kết với độc giả thiếu nhi.

Tác phẩm “Chuyện bốn mùa” trong “Tiếng Việt 2”, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo
* Ông có khắt khe quá không, bởi không ít độc giả yêu thích tác phẩm này, vì ngoài câu chuyện thú vị, tác phẩm còn dễ thương như một bài thơ, rất dễ thuộc?
- Người viết giỏi là chỉ ra được những điều cốt tủy mà nhiều người chưa thấy, chứ không phải kể những điều người ta có thể thấy, dù có nhiều cảm xúc tới đâu. Tôi khắt khe với nghề, với mình, không phải vì khó tính, mà vì thấy cần có sự phản biện, cần có sự nói thẳng, nói thật, dù đôi khi thẳng, thật gây buồn lòng.
"Người viết giỏi là chỉ ra được những điều cốt tủy mà nhiều người chưa thấy, chứ không phải kể những điều người ta có thể thấy, dù có nhiều cảm xúc tới đâu"- NHÀ VĂN TỪ NGUYÊN TĨNH.
* Ngoài "Chuyện bốn mùa", ông còn tác phẩm nào cho thiếu nhi không?
- Có thể nhắc tới tác phẩm Không thành người lớn, từng được NXB Thanh Hóa và NXB Lao Động in. Đây là câu chuyện nói về những đứa trẻ con nông thôn chịu những hậu quả chiến tranh và hậu chiến, những đứa trẻ không bao giờ thành người lớn.
Cũng có thể nhắc tới truyện ngắn Người tình của cha, tác phẩm được nhiều thiếu niên yêu thích khi chuyển thể thành phim và công chiếu trên đài truyền hình Việt Nam năm 1994. Truyện ngắn này cũng từng được tuyển chọn vào chương trình tham khảo lớp 9, bộ môn văn học địa phương tỉnh Thanh Hóa.

Tập truyện ngắn “Mối tình chàng Lung Mù”
* So với nhiều bạn văn cùng trang lứa, vì sao ông cầm bút khá muộn?
- Nhiều độc giả nghĩ tôi khởi đầu từ tập ký sự Hàm Rồng ngày ấy, viết chung với Lê Xuân Giang, hai tập (1984, 1987), nhưng thực ra gần 20 năm trước đó, từ 1965, tôi đã bén duyên với thơ ca khi là anh lính mới trực chiến ở trận địa cầu Hàm Rồng khốc liệt. Lúc bấy giờ, chúng tôi làm thơ với tinh thần như "tiếng hát át tiếng bom", làm để lấy tinh thần chiến đấu.
Lúc đấy, tôi viết về đời lính với những ý thơ rất bình dị, vì nghĩ, thơ chiến tranh không cần hô hào, cổ vũ, không cần sự gai góc. Bởi bản chất chiến tranh đã quá khốc liệt, khi mình viết bằng cảm xúc của người trong cuộc, bình dị thôi, dễ đi vào lòng người.
Một lần, ông Nguyễn Thế Kỷ, làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam, đi công tác ở trận địa ác liệt Hàm Rồng, dự một buổi đọc thơ. Chính ông là cầu nối để thơ của tôi được lên phát thanh, là niềm cổ vũ để tôi tự tin cầm bút. Tôi đã được đơn vị cử đi viết những bài báo đầu tiên về gương chiến đấu, dù lúc ấy, tôi chỉ là một anh lính mới.

Nhà văn Từ Nguyên Tĩnh thăm lại cầu Hàm Rồng
Năm 1967, tôi được gặp nhà thơ Anh Ngọc trong một trại sáng tác của Ty Văn hóa Thanh Hóa. Anh Ngọc dễ gần, thân thiện, hết lòng động viên đàn em… và từ đó tôi có thêm nhiều bài thơ đăng báo. Những cơ duyên ấy giúp tôi bén duyên với thơ và văn chương khi chưa tới 20 tuổi. Sau 1975, tôi học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, là cái nôi đào tạo nhiều anh em, bè bạn là nhà thơ, nhà văn sau này.
Tuy vậy, khi chọn con đường học vấn, tôi từng có suy nghĩ gác lại văn chương, học một cái nghề để phát triển, phục vụ cuộc sống, coi như bỏ hết vốn liếng thơ ca đã có. Tôi từng nghiên cứu về kịch bản văn học, nhưng tự nhận thấy mình không có vốn liếng về hội họa, âm nhạc để có thể xây vững cái nền để biên kịch giỏi, nên sớm ngừng lại.
Mãi sau này, tôi mới trở lại với văn chương, hào hứng khi nhận ra văn xuôi làm được những điều mà thơ không làm được. Một tác phẩm văn xuôi tạo dấu ấn có thể giúp tác giả trải hết lòng mình, có thể khiến nhiều độc giả xao xuyến. Chính văn xuôi đã giúp tôi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1994, khi mới chỉ ra 2 đầu sách.

... và nhận bằng khen của UBND tỉnh Thanh Hóa, năm 2021
* Được nhiều giải thưởng văn học, ông có nghĩ mình có duyên may?
- Với tôi, các giải thưởng không phải là duyên may, mà đến từ bao năm bền bỉ theo đuổi, đam mê, nghiêm túc với nghề.
Đến với văn chương có nhiều con đường khác nhau, mỗi tác phẩm văn chương như mỗi cuộc đời, vốn khác nhau. Cái tình và cái nết làm nên cá tính, học hành cùng cảnh ngộ sống làm nên độ nông sâu, còn người đọc sẽ nhận ra giọng điệu tác phẩm.
* Cảm ơn ông.
Vài nét về nhà văn Từ Nguyên Tĩnh
Ông sinh năm 1947 tại làng Bàn Thạch, Xuân Quang, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Hội viên: Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
Năm 1965, Từ Nguyên Tĩnh nhập ngũ, gắn bó với trận địa cầu Hàm Rồng và tuyến lửa xứ Thanh suốt 10 năm trong quân ngũ. Năm 1975, ông xuất ngũ, thi vào Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Học xong, ông về quê, dần dần làm đến chức Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Thanh Hóa, Tổng biên tập tạp chí Xứ Thanh. Từ năm 2016, ông chuyển ra Hà Nội sinh sống.
Ông đã được nhiều giải thưởng về văn học: Giải Nhì cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Sông Hương (1993) với truyện ngắn Mẹ; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam về đề tài chiến tranh (1994) với truyện ngắn Mối tình chàng Lung Mù; Giải C của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (2001) với trường ca Hàm Rồng; Tặng thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam (2004 - 2006) với tiểu thuyết Cõi người…
Năm 2022, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật với tập truyện ngắn Mối tình chàng Lung Mù.