Tại Hội nghị khoa học “Cập nhật tiến bộ trong Ung thư và Y học hạt nhân” do Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) tổ chức ngày 16/8, các chuyên gia đã chia sẻ những bước tiến đột phá trong việc ứng dụng y học hạt nhân, mở ra hy vọng mới cho bệnh nhân ung thư.
Theo Phó giáo sư Đào Xuân Cơ, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, ung thư là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu toàn cầu và tại Việt Nam. Số liệu từ GLOBOCAN 2022 cho thấy, mỗi năm Việt Nam ghi nhận hơn 182.000 ca mắc mới và hơn 122.000 ca tử vong do ung thư. Các loại ung thư phổ biến như phổi, gan, vú, dạ dày và đại trực tràng tiếp tục chiếm tỷ lệ tử vong cao. Trước thực trạng này, việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để chẩn đoán sớm, điều trị trúng đích và theo dõi hiệu quả đang trở thành xu hướng tất yếu.
Phó giáo sư Đào Xuân Cơ cho biết, y học hạt nhân đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư nhờ khả năng chẩn đoán sớm và điều trị hiệu quả. Các kỹ thuật ghi hình chức năng như PET/CT, SPECT/CT và SPECT giúp đánh giá chuyển hóa tế bào ung thư ngay cả khi chưa xuất hiện tổn thương hình thái, từ đó phát hiện di căn sớm và chính xác.

Bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: Nguyên Hà,
Đặc biệt, các liệu pháp phóng xạ nhắm đích như I-131, Lu-177 hay phương pháp theranostic (sử dụng cùng một phân tử để vừa ghi hình vừa điều trị) mang lại hiệu quả vượt trội. Nhờ vậy, y học hạt nhân không chỉ giúp cá thể hóa phác đồ điều trị mà còn tối ưu hóa hiệu quả cho từng bệnh nhân dựa trên đặc điểm sinh học của khối u.
Phó giáo sư Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, nhấn mạnh y học hạt nhân không chỉ giới hạn trong ung thư mà còn có ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như tim mạch, nội tiết và thần kinh. Riêng trong ung thư, các tiến bộ ngày càng được mở rộng. Hệ thống PET/CT đã được sử dụng tại Việt Nam hơn một thập kỷ, hỗ trợ chẩn đoán chính xác giai đoạn bệnh, đánh giá hiệu quả điều trị và phát hiện di căn. Ngoài ra, y học hạt nhân còn được ứng dụng để chẩn đoán và điều trị sa sút trí tuệ, mang lại giá trị lớn trong y khoa hiện đại.
Một ví dụ điển hình là việc sử dụng I-131 trong điều trị ung thư tuyến giáp. Dược chất này vừa ghi hình để chẩn đoán giai đoạn bệnh và các tổn thương di căn (phổi, xương) sau phẫu thuật, vừa phát ra tia bức xạ để tiêu diệt tế bào ung thư. Bệnh nhân uống một liều thuốc I-131 khi vào cơ thể đoán chính xác vị trí di căn và điều trị trực tiếp các tổn thương di căn này. Nhờ đó, ung thư tuyến giáp thể biệt hóa, dù đã di căn, vẫn có khả năng được điều trị hiệu quả.
Bên cạnh đó, y học hạt nhân còn phát triển nhiều dược chất phóng xạ khác, như cấy hạt phóng xạ I-125 trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn sớm hay sử dụng Y-90 cho ung thư biểu mô tế bào gan và di căn gan.
Các phương pháp xạ trị chiếu trong này có ưu điểm tia phóng xạ này có tầm chạy ngắn, chỉ vài milimet, giúp tiêu diệt tế bào ác tính với tổ chức liều chiếu xạ cao nhưng liều bức xạ xung quanh thấp không gây tổn thương đến các mô lành xung quanh.
Những tiến bộ này đã được ứng dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia và đang từng bước được triển khai tại Việt Nam, hứa hẹn nâng cao chất lượng điều trị ung thư trong nước.
Với những bước tiến vượt bậc, y học hạt nhân không chỉ mang lại hy vọng cho bệnh nhân ung thư mà còn mở ra một kỷ nguyên mới trong điều trị các bệnh lý phức tạp, hướng tới mục tiêu cá thể hóa và tối ưu hóa hiệu quả điều trị.