Tại hội thảo "Tâm điểm tín dụng Việt Nam 2025" ngày 27/2, ông Ivan Tan, Giám đốc Xếp hạng định chế tài chính của S&P Global Ratings, đánh giá triển vọng chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam là ổn định, song tồn tại sự phân hóa rõ rệt.
"Các ngân hàng quốc doanh sẽ giữ vị thế dẫn đầu về lợi nhuận và sức mạnh tài chính, trong khi nhà băng nhỏ hơn đối mặt thách thức về vốn, chất lượng tài sản", ông nói.
Ông Ivan Tan dự báo hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng ở 12-15% mỗi năm trong 3-5 năm tới. Mức này tương đương giai đoạn 2020 trở lại đây. Sự phục hồi của thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ kéo theo tác động tích cực đến chất lượng và gia tăng tài sản cho ngân hàng.
Thực tế trong hơn thập kỷ qua, chỉ 3 năm (2015-2017) tín dụng ngân hàng tăng trưởng trên 17-18% mỗi năm. Mức tăng vốn vay của hệ thống ngân hàng sau đó giảm dần về quanh 13-14%. Thậm chí, 2021 - thời điểm dịch Covid-19 bùng phát - tăng trưởng tín dụng giảm về 12%, thấp nhất từ 2014.
Dù vậy, Việt Nam vẫn là thị trường có đặc điểm tăng trưởng vốn và giá tài sản mang tính chu kỳ cao, tạo ra rủi ro đặc thù cho hệ thống ngân hàng. "Điểm đáng lo ngại là nhiều ngân hàng vẫn có bộ đệm vốn mỏng", ông Ivan Tan nói, cho rằng các ngân hàng có thể sẽ tiếp tục duy trì chính sách trả cổ tức bằng cổ phiếu để đảm bảo nguồn vốn nội bộ cho mục tiêu tăng trưởng tín dụng.
Năm nay, ngành ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở 16%, gấp đôi chỉ tiêu tăng trưởng GDP. Ông Ivan Tan cho rằng việc tăng tín dụng quá nhanh có thể đẩy các ngân hàng vào tình thế rủi ro. "Nếu không có các biện pháp bổ sung vốn phù hợp, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu có xu hướng gia tăng", ông nói.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Anh Quân, Quản lý cấp cao, Phụ trách Xếp hạng các định chế tài chính của FiinRatings, cũng nhìn nhận nhiều nhà băng có thể vượt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% năm nay. Tuy nhiên, tốc độ tăng cho vay quá nhanh cũng tiềm ẩn nguy cơ áp lực lên chất lượng tài sản của các ngân hàng - chỉ tiêu vốn chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt trong các quý gần đây.

Bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính) phát biểu tại hội thảo, ngày 27/2. Ảnh: Uyên Nguyễn
Tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Chính phủ dự kiến tăng trưởng GDP năm nay tối thiểu 8%, tạo nền tảng cho đà tăng hai con số giai đoạn 2026-2030. Theo đó, Việt Nam cần huy động nguồn lực hơn 4 triệu tỷ đồng (khoảng 160 tỷ USD), Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng chia sẻ tại một hội nghị tuần trước.
Theo bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính), khả năng huy động nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế là yếu tố tiên quyết cho việc thực hiện những mục tiêu chiến lược.
Cụ thể hơn, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinRatings, phân tích nền kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào vốn ngân hàng. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% năm nay, ước tính sẽ có hơn 2,5 triệu tỷ đồng được bơm vào nền kinh tế.
Trong bối cảnh đó, theo ông, thị trường vốn, gồm các kênh như chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp và các công cụ tài chính khác, cần đóng vai trò quan trọng hơn trong việc cung cấp nguồn lực tài chính dài hạn cho nền kinh tế.
"Nếu Việt Nam không sớm phát triển thị trường vốn, mục tiêu tăng trưởng cao năm nay và giai đoạn tới trở nên vô cùng thách thức", ông nói. Theo chuyên gia này, các kênh thị trường trái phiếu, thị trường nợ hiệu quả sẽ giúp khai thông, huy động được nguồn vốn trong dân, gồm 15 triệu tỷ tiền gửi tiết kiệm và hàng trăm tỷ USD của ngành bảo hiểm.

Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinRatings phát biểu tại hội thảo, ngày 27/2. Ảnh: Uyên Nguyễn
Giới chuyên môn nhìn nhận việc nâng hạng tín nhiệm sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư quốc tế và thu hút vốn dài hạn cho nền kinh tế. Cùng với đó, Việt Nam sẽ có cơ hội huy động vốn với chi phí thấp hơn, đồng thời giảm lãi suất vay với doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Ông Louis Kuijs, Kinh tế trưởng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, S&P Global Ratings cho biết nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhìn vào mức xếp hạng tín nhiệm để quyết định rót vốn vào các thị trường. Đồng thời, hạng tín nhiệm càng cao thì lãi suất, chi phí vay càng thấp ở thị trường vốn quốc tế.
Hiện Việt Nam được xếp hạng BB+ với triển vọng ổn định, theo đánh giá của S&P Global Ratings vào tháng 6/2024. Chính phủ đặt mục tiêu đến 2030, Việt Nam sẽ được nâng xếp hạng lên mức "Đầu tư", tương ứng mức Baa3 (với Moody's) hoặc BBB- (với S&P và Fitch) trở lên.
Theo lãnh đạo Bộ Tài chính, để đạt được mục tiêu nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, Việt Nam sẽ tiếp tục kiểm soát an toàn nợ công, phối hợp chặt chính sách tài khóa và tiền tệ. Việc này nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, tăng đầu tư công và phát triển hạ tầng chiến lược, gồm đường sắt tốc độ cao, cảng hàng không và các dự án năng lượng trọng điểm. "Bộ Tài chính đang tham mưu cho Chính phủ về các giải pháp để cải thiện tín nhiệm quốc gia và phát triển thị trường vốn", bà Tâm cho biết.
Đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, tỷ lệ nợ Chính phủ ở mức trung bình và rủi ro nợ vay nước ngoài ở mức thấp.
Chuyên gia của S&P nhìn nhận các chính sách ổn định và chiến lược thương mại cởi mở sẽ giúp Việt Nam duy trì dòng vốn đầu tư dồi dào từ các tập đoàn đa quốc gia, tạo nền móng vững chắc cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, với mô hình quản lý tập trung cao, hệ thống thể chế của Việt Nam vẫn hạn chế về tính minh bạch so với các nước trong khu vực.
Trong ngắn hạn, theo S&P, rủi ro từ tình hình địa chính trị bất ổn và căng thẳng thương mại có thể làm chậm đà phát triển của Việt Nam. Dù vậy, dự trữ ngoại hối đủ mạnh sẽ giúp Việt Nam chống chọi với những cú sốc thương mại theo chu kỳ. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có nguồn thu ngân sách ổn định, đủ sức ứng phó với các thách thức tài khóa tương lai.
"Nếu tiếp tục cải cách thể chế, nâng hiệu quả chính sách tài khóa và đẩy mạnh thương mại - đầu tư, Việt Nam có cơ hội cải thiện đáng kể xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong những năm tới", ông Andrew Wood, Giám đốc xếp hạng tín nhiệm quốc gia của S&P Global Ratings nói. Bên cạnh quốc gia, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp cũng cần được cải thiện. Bởi các doanh nghiệp Việt vẫn phụ thuộc lớn vào vốn vay ngân hàng, trong khi huy động vốn qua thị trường chứng khoán và trái phiếu chiếm tỷ lệ nhỏ. Do đó, nâng cao tính minh bạch thông tin cũng được xem là chìa khóa quan trọng để thúc đẩy thị trường vốn.
Phương Dung