Thảo luận tại Quốc hội ngày 21/11 về dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), đại biểu Trần Anh Tuấn (TP HCM) lý giải rằng công nghệ chiến lược thường phải phát triển từ giai đoạn ý tưởng, qua nhiều vòng thử nghiệm kéo dài và tốn kém, trong khi khả năng thành công luôn rất thấp. Nếu chính sách chỉ giữ mức ưu đãi dành cho công nghệ cao phổ biến, doanh nghiệp sẽ không thể tự mình gánh rủi ro và sẽ chọn những lĩnh vực dễ hơn.
"Chi ngân sách mà chỉ đòi thành công thì không doanh nghiệp nào dám làm sản phẩm chiến lược", ông nói, đề nghị bổ sung cơ chế chia sẻ rủi ro, cho phép thất bại trong thử nghiệm và hỗ trợ mạnh hơn ở các khâu nghiên cứu, thử nghiệm, thương mại hóa.

Đại biểu Trần Anh Tuấn (TP HCM) tại nghị trường. Ảnh: Hoàng Phong
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (TP HCM) cũng cho rằng sản phẩm chiến lược không thể hình thành nếu chính sách giữa hai luật Công nghệ cao và Chuyển giao công nghệ vận hành rời rạc. Doanh nghiệp muốn làm sản phẩm chiến lược phải có điều kiện tiếp cận công nghệ lõi, được thử nghiệm trong môi trường sandbox và nhận ưu đãi xuyên suốt từ nghiên cứu đến ứng dụng.
"Việt Nam cũng cần ràng buộc chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI, bởi không thể kỳ vọng doanh nghiệp trong nước phát triển sản phẩm chiến lược nếu không tiếp cận được công nghệ nền tảng", ông nói.
Đại biểu nhấn mạnh rằng ở các quốc gia có năng lực công nghệ mạnh, Nhà nước thường can thiệp trực tiếp vào giai đoạn nhiều rủi ro nhất bằng chính sách đặt hàng, chia sẻ chi phí thử nghiệm hoặc mua, giải mã, phổ biến công nghệ. Những chính sách này nếu được hoàn thiện sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn dễ bỏ cuộc và tạo ra chuỗi sản phẩm có giá trị lan tỏa.
Làm chủ công nghệ là trụ cột của tự chủ quốc gia
Giải trình cuối phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết việc sửa Luật Công nghệ cao và Luật Chuyển giao công nghệ nhằm giúp Việt Nam thực sự làm chủ công nghệ cao và hình thành thị trường công nghệ đúng nghĩa. Hai luật giữ vai trò khác nhau: Luật Công nghệ cao xác định các loại công nghệ, sản phẩm cần ưu tiên; còn Luật Chuyển giao công nghệ điều chỉnh hoạt động chuyển giao, thương mại hóa và quản trị công nghệ.
Ông nhấn mạnh công nghệ cao hiện không chỉ là lĩnh vực ưu đãi đầu tư mà đã trở thành trụ cột chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh và là một phần chủ quyền quốc gia. Việt Nam đã công bố 11 nhóm công nghệ chiến lược phải làm chủ, thể hiện quan điểm tự chủ công nghệ.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Quốc hội. Ảnh: Hoàng Phong
Dự thảo Luật Công nghệ cao được xây dựng theo hướng phân định công nghệ cao, công nghệ chiến lược và công nghệ lõi; bổ sung bốn định hướng đột phá như đưa khái niệm công nghệ chiến lược vào luật, tăng ưu đãi để nâng tỷ lệ nội địa hóa và hàm lượng công nghệ Việt Nam, tập trung vào các mục tiêu quốc gia như tăng trưởng hai con số và tự chủ công nghệ, đồng thời hình thành mô hình đô thị công nghệ cao.
Bộ trưởng cho biết các chính sách hiện hành sẽ tiếp tục được duy trì và bổ sung ưu đãi nếu doanh nghiệp FDI tăng chuyển giao, tăng nội địa hóa và có hoạt động R&D trong nước. Với công nghệ chiến lược, luật dự kiến bổ sung các cơ chế đặc biệt như giao nhiệm vụ trực tiếp, mua bí quyết công nghệ, xây dựng khu thí nghiệm riêng và áp dụng cơ chế mua sắm đặc thù cho sản phẩm chiến lược.
Với Luật Chuyển giao công nghệ, mục tiêu là hình thành thị trường công nghệ thực chất, chuyển từ kiểm soát sang thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Dự thảo mở rộng đối tượng và hình thức chuyển giao, coi tri thức, dữ liệu, thuật toán, phần mềm và AI là công nghệ để chuyển giao; bổ sung công nghệ phái sinh, đồng phát triển, chuyển giao tạm thời, chuyển giao theo kết quả và cơ chế sandbox.
Ông nói việc phân cấp thẩm định cho địa phương phải đi kèm bộ tiêu chí thống nhất toàn quốc, công khai kết quả thẩm định và cơ chế giám sát, phủ quyết của Trung ương. Dự thảo cũng mở rộng vai trò các tổ chức trung gian như môi giới, tư vấn, thẩm định giá, sàn giao dịch để thúc đẩy đổi mới công nghệ.
Theo Bộ trưởng, cả hai luật đều được sửa theo hướng tăng năng lực quản lý nhà nước, đẩy mạnh chuyển đổi số để giám sát, thống kê, đánh giá hiệu quả, đồng thời giữ quyền hậu kiểm với chế tài mạnh nhằm ngăn công nghệ lạc hậu, nâng khống giá trị công nghệ. Nhà nước sẽ quan tâm đồng bộ cả nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm và đặc biệt là bước đưa công nghệ thành sản phẩm thương mại - khâu Việt Nam còn yếu. Đồng thời, cơ quan soạn thảo sẽ tiếp thu tối đa ý kiến đại biểu Quốc hội để hoàn thiện hai dự luật.
Sơn Hà




































