Phạm Hải Lê là tác giả có nhiều bài thơ được đăng trong sách Tiếng Việt 1, bộ Chân trời sáng tạo, như Vui Trung thu, Cún và mèo, Quà của bé, Thăm quê, Lớp em, Ước mơ của con, Vườn ươm yêu thương, Ai gõ cửa (tập 1) và Mùa hoa, Đêm hội chào Xuân, Gia đình thân thương (tập 2)… với nhiều bút danh.

Xem chuyên đề Gặp gỡ các tác giả trong SGK TẠI ĐÂY

Chị là nhà giáo thích làm thơ cho thiếu nhi và bất cứ cảnh vật nào ở xung quanh, từ một món quà cho đến chú ong, bầy chim, hoặc đoàn lân cùng những chiếc lồng đèn xinh xắn... đều có thể trở thành đề tài trong thơ chị.

Thơ đến từ những cảm xúc bất chợt

Trong một lúc, thật khó để Phạm Hải Lê có thể kể hết những cảm xúc của mình về tất cả bài thơ đã được in ở các tập sách. Tuy nhiên, chị nhớ nhiều về bài thơ Vui Trung thu vì nó nhắc đến những đêm trăng rằm kỷ niệm của mình.

Phạm Hải Lê viết bài thơ này vào một buổi tối gần Tết Trung thu, trên đường đi làm về, thấy nhiều cửa hàng đã bày biện rất nhiều lồng đèn, nhưng chủ yếu là lồng đèn điện, khiến lòng chị nhớ về những mùa Trung thu thuở nhỏ với các loại lồng đèn thủ công. Hồi ấy, gia đình Phạm Hải Lê còn sống ở quê hương Đồng Tháp, trong khu tập thể dành cho giáo viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Tháp, Trung thu năm nào chị cũng được ba làm cho chiếc lồng đèn để ra sân chơi cùng "đám trẻ con" hàng xóm. Lồng đèn rất giản dị, hình ngôi sao hoặc con thỏ... làm bằng khung tre, dán giấy báo, nhưng là món quà quý mà chị háo hức được nhận mỗi năm.

Nhà giáo Phạm Hải Lê

Trẻ con trong khu tập thể rước đèn đi quanh xóm, chốc chốc lại bị tắt nến nên thường mồi lửa cho nhau, rồi rủ nhau chơi các trò chơi trốn tìm, đuổi bắt, múa lân, diễn kịch chị Hằng chú Cuội, sau đó quây quần ăn bánh kẹo... Khi ấy đèn đường chưa có, điện trong nhà "hai ngày sáng, ba ngày tắt" và rất thường bị mưa vào đêm Trung Thu, nhờ vậy mà ánh nến lung linh hơn, còn trẻ con thì luôn biết cách bày ra biết bao nhiêu trò vui.

Ký ức trở lại như cuốn phim quay chậm, chị ghi vội những câu thơ cho kịp dòng cảm xúc đang có trong lòng mình: "Trống vang tùng cắc/ Sư tử dẫn đầu/ Cá vàng theo sau/ Thỏ, ong nối gót...".  Trong mắt Hải Lê, dù cuộc sống trải qua nhiều đổi thay, trẻ em vẫn cần được gieo vào lòng tinh thần hòa ái và những ước mơ đẹp. Độc giả sẽ tìm thấy điều này trong các câu thơ tiếp theo, giọng thơ trong trẻo, như reo vang: "Kìa ông trăng sáng/ Chếch trên nền trời/ Mời ông cùng bé/ Xách đèn đi chơi/ Gió nâng câu hát/ Tưng bừng đèn sao...".

Ngoài những điều vừa nói, Vui Trung thu còn điều thú vị nữa là chỉ trong một bài thơ mà có rất nhiều vần như: ang/ăng/âng/ong/ông/ung/ưng/ach/êch/ich để học sinh lớp 1 tập đọc.

Các bài thơ khác của Hải Lê đã đăng trong sách cũng thường đến từ những cảm xúc đến bất chợt như vậy. Khi cảm nhận được không khí đầm ấm của gia đình nhỏ được lồng trong gia đình lớn, bóng dáng ông bà, cha mẹ, con cháu hòa vào nhau, Hải Lê có bài Gia đình thân thương, Ước mơ của con, Thăm quê... Khi nghe những âm thanh dễ chịu từ những khu vườn, chị có các bài thơ Đêm hội chào Xuân, Mùa hoa, Khúc nhạc ban mai... thật tươi tắn, rộn rã. Phạm Hải Lê đã cố ý gieo các vần trong một bài học vào một bài thơ, nhờ thế các em học sinh có những bài học dễ thương và dễ thuộc.

vui-trung-thu-1759273898212752495165.jpegdem-hoi-1759273898255837052117.jpeggia-dinh-17592738983141953840290.jpeg

Một số bài thơ của Phạm Hải Lê (với nhiều bút danh) trong sách “Tiếng Việt 1”, bộ Chân trời sáng tạo

Làm thơ là sở thích

Phạm Hải Lê được sinh ra trong gia đình có truyền thống gắn bó với ngành sư phạm, bà ngoại và ba mẹ chị đều là giáo viên. Vậy nên, từ bé, việc học hành và đọc sách của Hải Lê đã được gia đình quan tâm nhiều. Đọc sách vừa là công việc được khuyến khích, vừa là nhiệm vụ phải hoàn thành, nên chị sớm có thói quen đọc sách, xem mỗi quyển sách là một chân trời mới để học hỏi mọi thứ và cũng từ đó mà yêu văn chương.

Thời sinh viên là quãng đời mơ mộng nhất, Hải Lê học nhiều, đọc sách nhiều và bắt đầu thích làm thơ, ghi lại những cảm xúc bâng quơ: Tình yêu trong trẻo, những lo sợ bất trắc và cả những giận hờn khó nói... Làm thơ, với Hải Lê chỉ là sở thích ghi chép cho riêng mình, không phải để trở thành một nhà thơ, nên chị chẳng gửi đến tờ báo - tạp chí nào, chỉ thỉnh thoảng có đăng trên tờ nội san của công đoàn trường.

Sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm TP.HCM, Phạm Hải Lê bận rộn với việc học cao học, dạy học, lập gia đình sinh con... nên việc làm thơ có chậm lại và "dịch chuyển" hẳn từ thơ tình yêu sang thơ thiếu nhi.

Những lần sáng tác thơ thiếu nhi là lúc Hải Lê được vô tư chơi với những điều nhỏ nhặt xung quanh mình, như một món quà, một chú cún, cây viết chì, tiếng gió reo, chim ríu rít..., thấy cuộc sống trôi qua thật nhẹ nhàng.

Xem chữ nghĩa và vần điệu như những người bạn thân, lặng lẽ bên cạnh mình mọi lúc, nên Phạm Hải Lê cũng lặng lẽ khi có những bài thơ được đăng trên sách. Ít ai biết đó là thơ của chị, thậm chí con gái có một buổi đi học về đọc bài thơ Ai gõ cửa? rồi hỏi: "Mẹ, sao con thấy tên tác giả bài thơ này giống tên của mẹ vậy?".

Suốt buổi nói chuyện, mỗi khi hỏi về thơ, Hải Lê thường cười và nhiều lần bẽn lẽn đính chính, có lúc tự "châm biếm" mình: "Tôi không phải nhà thơ, có những bài gọi là văn vần, vần vè thì đúng hơn". Dù vậy, thơ luôn là niềm yêu thích của Phạm Hải Lê, chị thường xuyên đăng các bài thơ của mình trên trang Facebook cá nhân.

ai-goc-cua-17592738982841575803394.jpegvuon-uom-17592738981581966717372.jpegmua-hoa-17592738982281056383116.jpeg

Quan tâm đến kỹ năng đọc ở trẻ tự kỷ

Nếu sáng tác thơ là sở thích thì làm giáo dục là chuyên môn mà Phạm Hải Lê dành phần lớn thời gian của mình để học hỏi, nghiên cứu. Hiện nay, chị là giảng viên của Khoa Giáo dục tiểu học (Đại học Sư phạm TP.HCM) và đang là nghiên cứu sinh, thực hiện đề tài: Kỹ năng đọc và giải pháp dạy học đọc qua tài liệu cho học sinh khuyết tật trí tuệ mức độ nhẹ (nghiên cứu giai đoạn học âm - chữ).

Chị toàn tâm nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần giúp trẻ em không may bị khuyết tật dễ dàng đọc - viết hơn để hòa nhập cộng đồng. Là mẹ của 3 đứa con nhỏ, phát triển bình thường, nhưng mỗi đứa một tính cách, đã khiến Hải Lê rất vất vả mới tạm thời tìm được cách nuôi dạy chúng hiệu quả, nên chị hiểu rằng phụ huynh của những đứa trẻ khuyết tật và trẻ tự kỷ sẽ vất vả hơn nhiều lần.

Để phục vụ cho các đề tài nghiên cứu và bài báo khoa học, Phạm Hải Lê học chứng chỉ "Can thiệp ngôn ngữ trị liệu dành cho trẻ tự kỷ" do Bệnh viện Nhi đồng 1 TP.HCM đào tạo và tham gia các lớp dạy trẻ rối loạn ngôn ngữ...

Những tưởng vì thấy mình yêu thích và phù hợp với trẻ tự kỷ nên chọn đề tài luận án tiến sĩ như trên, xem như một thế mạnh trong nghiên cứu, nhưng Phạm Hải Lê chia sẻ: "Thật ra tôi là người không có nhiều kỹ năng và khéo léo trong việc giao tiếp với trẻ, đặc biệt là trẻ tự kỷ, nhưng nhờ tiếp xúc với các bé và phụ huynh trong những năm gần đây nên hiểu họ hơn rất nhiều, từ đó yêu hơn và kiên nhẫn hơn". Đó là một thế giới tinh thần phong phú mà Hải Lê nói đã học được rất nhiều.

Có những bé có trí nhớ không tốt, chị tỉ tê dạy suốt 3 tháng vẫn không thể nhớ cô giáo, ngược lại có những bé sau 3 tháng không còn dạy, gặp lại vẫn nhớ cô và chào rất ngoan. Có những người mẹ vì chế độ ăn "bảo thủ" của những đứa trẻ tự kỉ mà cần mẫn đem đồ ăn đến trường cho con vào mỗi giờ cơm trưa.

Khi dạy các bé đọc được rõ ràng một bài thơ nhỏ, Hải Lê cảm động rưng rưng. Những lúc như vậy, chị hiểu rằng với những đứa trẻ bình thường, học đến lúc biết đọc biết viết không có gì khó khăn, nhưng với cha mẹ những bé tự kỷ, khi con đọc được trọn vẹn một bài thơ quả là điều kỳ diệu. Kỷ niệm của cô giáo, phụ huynh và học sinh ngày càng nhiều hơn nhờ những việc nho nhỏ như vậy.   

Thế giới của trẻ tự kỷ vẫn còn rất mênh mông đối với cô giáo Phạm Hải Lê và chị đang miệt mài khám phá, bên cạnh đó, vẫn làm thơ khi cảm xúc chợt đến. Một người phụ nữ hiền hậu, tâm hồn nhạy cảm và cách sống giản dị trong mọi khía cạnh. Với rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, tham luận hội thảo, bài báo khoa học về các phương pháp dạy trẻ tự kỷ đọc và viết, Phạm Hải Lê đã có đóng góp trong việc giúp các giáo viên dễ hơn phần nào trong việc đào tạo trẻ đặc biệt.

Vài nét về thạc sĩ Phạm Hải Lê

Sinh năm 1985 tại Đồng Tháp, hiện sống và làm việc tại TP.HCM. Giảng viên Khoa Giáo dục tiểu học, Đại học Sư phạm TP.HCM.

Đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học viết chung và riêng về việc dạy học âm - chữ cho trẻ khuyết tật trí tuệ, về ứng dụng lý thuyết ngữ dụng học trong can thiệp hành vi chào cho trẻ tự kỉ 5 - 6 tuổi…

XEM THÊM TIN TỨC VĂN HOÁ TẠI ĐÂY

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022