"Không phải ngẫu nhiên mà ngày 2/9/1945 luôn gắn cùng từ "Độc lập" và đi kèm các khái niệm như Lễ Độc lập, Ngày Độc lập, Tết Độc lập" - nhà sử học Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch Hội Sử học Việt Nam, chia sẻ.
Xem chuyên đề 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 TẠI ĐÂY
"Vào thời khắc ấy, hai chữ "Độc lập" vô cùng có ý nghĩa. Đó vừa là truyền thống được kết tinh qua cả ngàn năm của dân tộc, vừa là khát vọng luôn âm ỉ trong lòng hàng triệu Việt Nam sau gần một thế kỷ dưới ách thực dân" - nhà sử học chia sẻ thêm.
Ông tiếp tục câu chuyện với báo Thể thao và Văn hóa/TTXVN: "Bởi thế, Ngày Độc lập 2/9 không chỉ là mốc son nhắc nhở chúng ta về giá trị tối thượng của tự do. Xa hơn, đó là điểm khởi đầu cho quá trình kiến tạo một nước Việt Nam trong 8 thập niên vừa qua".
Triết lý xuyên suốt
* Trước hết, chúng ta hãy cùng trở lại thời điểm 80 năm trước. Nếu đặt Việt Nam trong bức tranh chung về những cuộc cách mạng giành độc lập mà nhiều quốc gia từng trải qua, ông thấy những nét riêng của Cách mạng Tháng Tám là gì?
- Tôi xin mượn lời tổng kết của Hồ Chủ tịch: "Cách mạng ở đâu thành công cũng phải đổ máu nhiều. Có nước phải chặt đầu vua… Nước ta vua tự thoái vị, các đảng phái không có mấy. Trong một thời gian ngắn, các giai cấp đoàn kết thành một khối, muôn dân đoàn kết để mưu hạnh phúc chung là nước đến hoàn toàn độc lập và chống được giặc xâm lăng, đuổi thực dân tham ác ngoài bờ cõi".
Tựu trung, nhận xét ấy gắn với quan điểm xuyên suốt của chúng ta trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa: tận dụng mọi cơ hội lịch sử mang lại, nhưng quan trọng nhất vẫn là "lấy sức ta mà tự giải phóng cho ta". Để làm được điều này trọn vẹn, nền tảng bắt buộc phải là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo ra ý chí thống nhất, huy động sức mạnh của mọi tầng lớp.
Thực tế cho thấy điều đó: Chúng ta sớm tập hợp được sức mạnh và sự hưởng ứng từ toàn thể nhân dân, để rồi giành giành chính quyền trên toàn quốc chỉ trong vòng nửa tháng - một tốc độ và quy mô không dễ gặp ở nhiều cuộc cách mạng trên thế giới.
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đến dự "Ngày kháng chiến". Ảnh: TTXVN
* Vậy còn những đặc trưng khác của Cách mạng Tháng Tám, từ góc nhìn của một nhà sử học?
- Tôi muốn kể một câu chuyện nhỏ. Tại London (Anh), nhiều địa điểm vẫn được gắn những tấm biển tròn màu xanh để kỷ niệm, nếu chúng từng xuất hiện trong cuộc đời của các danh nhân trên thế giới. Và ở tấm biển đặt tại vị trí từng là khách sạn Carlton, nơi Bác Hồ từng làm việc năm 1913, trong những dòng giới thiệu về Bác có câu: "Hồ Chí Minh (1890 - 1969), người sáng lập nước Việt Nam hiện đại" (Founder of modern Vietnam).
Với khái niệm "nước Việt Nam hiện đại", sự ghi nhận ấy cho thấy cách quốc tế nhìn nhận về tầm vóc và tư duy của Bác Hồ và đội ngũ lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám trong việc kiến lập một nhà nước độc lập. Thực tế, con đường giành độc lập của chúng ta khi đó cũng in đậm những giá trị tiến bộ của thời đại.
* Ông có thể nói cụ thể hơn?
- Chúng ta từng nhắc nhiều tới việc Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng các văn kiện lịch sử gắn với quyền con người của Mỹ và Pháp. Thực tế, Lễ Độc lập cũng đặt nền móng cho việc xây dựng một mô hình nhà nước rất hiện đại và tiến bộ ngay sau đó.
Chẳng hạn, năm 1946, chúng ta đã tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và xây dựng Hiến pháp, trong đó ghi nhận các quyền bình đẳng về sắc tộc, tôn giáo, đặc biệt là bình đẳng nam nữ. Thời điểm ấy, một số quy định còn chưa xuất hiện đầy đủ tại mọi nước châu Âu - chẳng hạn như việc cho phụ nữ được quyền bầu cử hay ứng cử.
Rồi, sử liệu cho thấy, trong khoảng 15 tháng sau Cách mạng Tháng Tám, chúng ta đã tiếp cận và xử lý rất nhiều vấn đề của kinh tế, văn hóa, ngoại giao, pháp chế… bằng tư duy hiện đại. Đơn cử, khi đó, Hồ Chủ tịch đã nhắc tới việc cần kiểm tra, giám sát chính quyền qua việc thành lập Thanh tra Chính phủ. Trong kinh tế, Người đề xuất xây dựng mô hình hợp tác xã theo chuẩn quốc tế, thậm chí giao cụ Nguyễn Xiển nghiên cứu tổ chức mạng lưới thủy lợi với hình thức gần như "xã hội hóa" bây giờ. Rồi, về ngoại giao, chúng ta cũng có tư duy muốn mở cửa, làm bạn với các nước như hiện nay đang theo đuổi…

Chỉ sau 5 tháng giành được độc lập, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần yêu nước và khí thế hào hùng của Cách mạng Tháng Tám, tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên trên khắp mọi miền Tổ quốc, không phân biệt nam, nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo đã tham gia cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất. Trong ảnh: Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I, ngày 2/3/1946. Ảnh: Tư liệu TTXVN
* Để nói về một triết lý xuyên suốt những tư duy hiện đại khi ấy, ông sẽ nói gì?
- Khi đọc lại các tư liệu về Bác Hồ, tôi thấy Người luôn nhấn mạnh và lặp lại một quan điểm nhất quán: nếu có độc lập mà người dân không được hưởng tự do và hạnh phúc, thì độc lập đó trở nên vô nghĩa. Có nghĩa, mục tiêu cuối cùng của cuộc Cách mạng Tháng Tám là phải để mỗi người dân được sống trong hạnh phúc, ấm no và được tôn trọng nhân phẩm.
Thực hiện cuộc cách mạng giành chính quyền với tư tưởng tiến bộ, hướng tới xây dựng một mô hình nhà nước nhân văn và tuyệt đối đề cao con người - đó là một đặc trưng nữa của Cách mạng Tháng Tám. Và nó cũng góp phần lý giải vì sao mọi tầng lớp nhân dân lại tin tưởng, hết lòng đứng về phía cách mạng, cả trong Tổng khởi nghĩa và những năm tháng chiến tranh sau đó.
Những bài học từ quá khứ
* Còn bây giờ, khi Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh đã tới gần, ông thường nghĩ gì về con số này?
- Đó là con số mang nhiều lớp nghĩa. Chẳng hạn, bên cạnh giá trị về lịch sử, nó cũng là chỉ dấu quan trọng với những người làm sử chúng tôi: Sau ngần ấy năm, hầu hết những người trực tiếp tham gia và chứng kiến sự kiện này gần như lui hết vào lịch sử theo nghĩa đen, tức là không còn nữa.
Tháng trước, khi thống kê tư liệu, tôi nhận ra một thực tế: Sau sự ra đi vào năm 2024 của Đại tướng Nguyễn Quyết - một trong những lãnh đạo tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội khi đó - chúng ta hầu như đã mất hẳn những chứng nhân quan trọng của sự kiện này.
Rồi, với một dấu mốc khác, như việc Hồ Chủ tịch tới dự Lễ khai giảng khóa 1 trường võ bị Trần Quốc Tuấn (tại Sơn Tây năm 1946) và trao tặng lá cờ thêu 6 chữ Trung với nước - Hiếu với dân, chúng tôi cũng rất vất vả mới tìm được một cựu binh cao tuổi từng có mặt tại đây. Đó là niềm vui hiếm hoi và cũng là nỗi lo lớn vì những nhân chứng ấy đang dần xa hẳn chúng ta.

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2/9/1945. Ảnh: TTXVN
* Có lẽ ông muốn nói tới sự cần thiết của việc tìm kiếm, sưu tập mọi tư liệu gắn với những mốc lịch sử lớn như 2/9/1945 - điều mà ông từng nhấn mạnh tại nhiều hội thảo, thậm chí là trực tiếp đứng ra vận động trong một số trường hợp?
- Mỗi người mất đi sẽ mang theo mình một kho tàng tri thức, một "thư viện sống" gắn với ký ức và trải nghiệm của họ. Mà xét cho cùng, lịch sử là sự nối dài ký ức của cộng đồng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tại đó, một bức ảnh có thể biến một khoảnh khắc thoáng qua thành thông điệp vĩnh cửu. Một câu chuyện trong gia đình, nếu được đặt đúng chỗ, sẽ trở thành mảnh ghép sống động giữa bức tranh ký ức của dân tộc.
Theo cách nghĩ ấy, việc sưu tập, gìn giữ ký ức không thể chỉ là trách nhiệm của giới chuyên môn hay các cơ quan nhà nước, mà cần được mở rộng tới toàn xã hội.
Nhưng xa hơn, tôi muốn nhắc về một khía cạnh khác: Với khối tư liệu đồ sộ đã được tích lũy trong nhiều năm qua về Ngày 2/9, đã đến lúc chúng ta cần hệ thống lại và "chuẩn hóa" chúng. Việc thẩm định, chú giải, phân loại và khai thác đúng với giá trị thực của từng tư liệu không chỉ là nhằm đảm bảo tính chân xác của lịch sử. Nó còn giúp các thế hệ sau có thể tiếp cận và sử dụng chúng một cách hợp lý trong tương lai.
* Ông vừa nhắc tới lớp nghĩa thứ nhất của "cột mốc 80 năm", dưới góc nhìn về việc sưu tập, lưu giữ các tư liệu lịch sử. Vậy còn những lớp nghĩa khác?
- 80 năm là vòng thời gian đủ dài để chứng kiến những đổi thay của cả một dân tộc. Điều thú vị là con số ấy lại trùng hợp và tạo thành một trục đối xứng lịch sử với "80 năm nô lệ", như cách chúng ta vẫn gọi quãng thời gian trước Tháng Tám lịch sử năm 1945. Như thế, chặng đường dài ấy không chỉ là bản tổng kết thành tựu, mà còn gợi mở câu hỏi: so với quãng thời gian bị kìm hãm, áp bức trong quá khứ, chúng ta đã để lại được những giá trị, bài học và di sản gì thực sự xứng đáng?".
Có nghĩa, bên cạnh những hình thức kỷ niệm và tôn vinh như vẫn có mỗi năm, sẽ càng đáng quý nếu cột mốc Cách mạng Tháng Tám, Ngày Độc lập 2/9 là dịp để chúng ta đưa ra và khẳng định những thông điệp từ lịch sử. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập với thế giới, những thông điệp ấy vẫn để giúp chúng ta vừa đinh hướng cho lộ trình phát triển, vừa giữ được những hệ giá trị mà lịch sử và khát vọng độc lập từ 80 năm trước đã xác lập cho mình.
* Ông có thể thử phác họa những thông điệp này?
- Tôi nghĩ đơn giản, xây dựng lòng tin từ nhân dân và đưa ra những tư duy tiến bộ, hướng về nhân dân - những đặc thù làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám mà chúng ta vừa nhắc tới - là các bài học hoàn toàn có thể được cập nhật và làm mới trong bối cảnh hiện tại.
Chẳng hạn, nếu coi khát vọng độc lập là một hệ giá trị rất lớn, thì nó nên được phát huy ở nhiều lĩnh vực, ngay cả với kinh tế. Trong quá khứ, nguồn vốn từ FDI hay ODA là cần thiết trong một số giai đoạn, nhưng nếu mục tiêu của chúng ta là chủ động, tự chủ, trên con đường phát triển, thì chắc chắn phải nghĩ đến thời điểm không thể phụ thuộc vào nguồn lực này. Xuất khẩu lao động cũng vậy, đó là giải pháp trước mắt cho tăng trưởng, nhưng lâu dài chúng ta phải hướng tới xuất khẩu nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không phải lao động phổ thông.
* Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện!
Những di sản cần lưu giữ
"Tôi từng đề xuất có hình thức tôn vinh, gợi nhớ việc Quốc kỳ, Quốc ca Việt Nam lần đầu xuất hiện tại Hà Nội ở quảng trường Cách mạng Tháng Tám trong ngày 19/8/1945 lịch sử. Đó có thể là một bức tượng nhỏ về nhạc sĩ Văn Cao, và một phù điêu mang biểu tượng Quốc kỳ đặt ở hai vườn hoa liền kề không gian này. Gần nhất, tôi được một số lãnh đạo của Hà Nội cho biết các ý tưởng này đang được nghiên cứu tìm hướng triển khai phù hợp trong thời gian gần.

Nhà sử học Dương Trung Quốc
Bên cạnh đó, tôi cũng từng đề nghị UBND thành phố Hà Nội tìm hướng thành lập Bảo tàng Văn Cao tại nhà riêng của ông ở phố Yết Kiêu hiện nay. Theo tôi, đó là điều hợp lý và cần thiết, với một nhạc sĩ đã in đậm dấu ấn của mình trong lịch sử, ở các ngày 19/8 và 2/9 năm 1945.
Riêng với một cái tên cũng rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam năm 1945- Đại tướng Võ Nguyên Giáp - tôi và giới sử học cũng luôn mong mỏi Hà Nội có một lưu niệm riêng về Đại tướng, mà ngôi nhà hiện tại trên đường Hoàng Diệu chính là địa chỉ hợp lý nhất. Trong lịch sử, kể từ năm 1954, đây cũng là nơi lui tới của rất nhiều sĩ quan, bạn chiến đấu, nguyên thủ quốc gia, danh nhân thế giới… để gặp Đại tướng. Và sẽ rất ý nghĩa nếu ở phần không gian trước ngôi nhà, chúng ta có thể làm một vườn tượng chân dung các tướng lĩnh có công trong kháng chiến, để tạo thành một quần thể gắn với Lăng Hồ Chủ tịch, Hoàng thành Thăng Long và Nhà Quốc hội liền kề" (Phát biểu của nhà sử học Dương Trung Quốc).