Nhắc đến Đoàn Giỏi (17/5/1925 - 2/4/1989), người ta thường nói đến Đất rừng phương Nam nổi tiếng, nhưng thật ra ông còn rất nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam, riêng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông đã có nhiều sáng tác với rất nhiều thể loại.
Báo Thể thao và Văn hóa (TTXVN) trân trọng trích giới thiệu bài viết của PGS-TS Võ Văn Nhơn về khía cạnh này.
Sớm ý thức cách mạng
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi có một bài báo rất nổi tiếng là Nhận đường, viết cuối năm 1947, để thổ lộ tâm trạng của các văn nghệ sĩ khi đến với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Khi nghiên cứu văn học kháng chiến Nam bộ, chúng tôi hiếm khi bắt gặp những nhà văn "nhận đường" như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng... ở chiến khu miền Bắc. Trường hợp "nhận đường" hiếm hoi của văn học kháng chiến Nam bộ có lẽ là Đoàn Giỏi, với truyện ngắn Đường về gia hương, in trong tập truyện Đường về gia hương do Phân hội Văn nghệ Mỹ Tho xuất bản năm 1949. Truyện vốn được phát triển từ truyện ngắn đầu tay của ông là Nhớ cố hương đăng trên Nam kỳ tuần báo số Tết năm 1943.
Nhà văn Đoàn Giỏi. Ảnh tư liệu
Sau khi nhận góp ý của Hồ Biểu Chánh về cái kết cho phiên bản năm 1943, Đoàn Giỏi đã chỉnh sửa. Thế nhưng đến năm 1948, khi viết lại câu chuyện này dưới tựa đề Đường về gia hương, cái kết được thay đổi một lần nữa. Đứa bé không chết dọc đường, cũng không tình cờ được người đàn bà giàu sang nhân đức cứu khổ, mà trên đường về quê nó chứng kiến không khí sôi sục bất bình khi Pháp lăm le tái chiếm Nam bộ, nên nhanh chóng hòa vào dòng người kháng Pháp bảo vệ quê hương.
Từ cái nhìn đầy bi kịch về hiện thực, dưới ánh sáng của cuộc đời mới và tư duy văn học mới, Đoàn Giỏi đã mang đến cho nhân vật của mình một số phận khác. Ở đây, có thể thấy "đôi mắt" quan sát nhân sinh của Đoàn Giỏi đã thay đổi như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân… ở miền Bắc, từ chỗ chỉ nhìn thấy sự bất lực của phận người bé mọn đã nhận ra sức mạnh đổi thay thời cuộc của họ.
Tuổi đời và tuổi nghề của Đoàn Giỏi ít hơn rất nhiều so với những nhà văn kể trên và Cố hương cũng chỉ là tác phẩm đầu tay đơn lẻ của ông trước Cách mạng tháng Tám, nên sự thay đổi ở Đoàn Giỏi cũng diễn ra hết sức nhanh chóng, không trăn trở như quá trình "nhận đường" của các nhà văn lớp trước. Từ đổi thay ấy, Đoàn Giỏi đã mau chóng có nhiều đóng góp cho văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ.

Quang cảnh lễ kỷ niệm. Ảnh: Nguyễn Hoàng
Ngay sau khi Pháp trở lại xâm lăng nước ta, Đoàn Giỏi đã trở lại quê hương tích cực tham gia kháng chiến. Giống như Tú Mỡ giai đoạn đó đã làm ca dao vận động nhân dân tiêu tiền rách; Nam Cao viết sách giáo khoa địa lý, làm nhân viên thu thuế trong vùng địch hậu; Chế Lan Viên làm phóng viên cho tờ Quân du kích; Thanh Tịnh sáng tạo ra thể độc tấu để tuyên truyền cho kháng chiến; Nguyễn Bính làm ca dao, hò, vè để phục vụ kháng chiến; Đoàn Giỏi cũng không nề hà các công việc mà cách mạng, kháng chiến giao cho.
Ông đã làm cán bộ thông tin, trưởng công an xã, trinh sát công an, phụ trách văn nghệ kiêm chủ bút báo Tiền phong, Phó Ty Tuyên truyền tỉnh Mỹ Tho phụ trách phòng văn nghệ, Phó Ty Thông tin Rạch Giá, rồi Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Nam bộ, Phó Phòng Văn nghệ Sở Thông tin Nam bộ, thư ký tòa soạn tạp chí Lá lúa…
Ông cũng tích cực tham gia hoạt động trong nhóm văn nghệ Đồng Tháp Mười (gồm Nguyễn Bính, Đoàn Giỏi, Bảo Định Giang, Nguyễn Đức Hinh, Việt Ánh). Năm 1954, ông còn vào vùng địch hậu Vĩnh Châu, tham gia đoàn tuyên truyền báo chí.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều phát biểu. Ảnh: Đậu Thanh Sơn
Tích cực sáng tác cho văn học kháng chiến
Trong thời kỳ đầu kháng chiến, ông làm khá nhiều thơ gửi cho các báo trong vùng tạm chiếm, ví dụ các bài Tư lương nhân đăng trên Dân báo, Mười hai bến nước đăng trên tờ Ánh sáng…
Thơ Đoàn Giỏi trong thời kỳ này cũng nằm trong cảm hứng lãng mạn anh hùng của thơ kháng chiến trong cả nước, với một ngôn ngữ thơ vay mượn từ hệ thống thi pháp thơ lãng mạn. Chính ông cũng từng thừa nhận: "Trong thời gian này tôi vẫn làm thơ, ngôn ngữ còn hoa mỹ, khuôn sáo, như bài gửi cho Thẩm Thệ Hà - người bạn trước kia cùng học - đang dạy học ở vùng địch tạm chiếm: "Đường không cách mấy quan san/ Ta chờ ngươi ở bến trăng sông Tần". Hồi đó nếu ai còn dùng quan san, ngươi, sông Tần… cũng là chuyện bình thường".
Trong văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ có thể loại truyện thơ. Thể loại này xuất hiện phong phú, nhằm khái quát một dung lượng hiện thực lớn, nhằm khắc họa các số phận những con người từ nghèo khổ tăm tối nhờ cách mạng mà bước ra ánh sáng, ca ngợi những tấm gương anh dũng trong kháng chiến như Ông lão mài gươm của Nguyễn Bính, Bà mẹ anh hùng của Xuân Miễn... Đặc biệt, các truyện thơ viết theo kiểu kể thơ Lục Vân Tiên ở Nam bộ dễ phổ biến trong quần chúng như Chú Hai Neo của Nguyễn Hải Trừng, Anh Ba Thắng của Việt Ánh... được hoan nghênh rất nhiệt liệt. Riêng Đoàn Giỏicũng đóng góp cho thể loại gần gũi với quần chúng này bằng truyện thơ Chuyện thằng Còi...

PGS-TS Võ Văn Nhơn phát biểu. Ảnh: Nguyễn Hoàng
Bên cạnh truyện thơ, thời kỳ này ở chiến khu cũng có những vở kịch thơ đáng chú ý như vở Những người cộng sản của Phạm Minh Hòa nói về cuộc đấu tranh anh dũng của những người tù Côn Đảo, vở Thủ khoa Huân được giải thưởng của Viện Văn hóa Nam bộ năm 1949, và vở Áo đêm trăng của Nguyễn Bính.
Kịch thơ Áo đêm trăng được công diễn lần đầu tiên vào đêm 20/1/1948 trong lễ phong công hàm cho Trung tướng Nguyễn Bình ở chiến khu Đồng Tháp Mười. Vở kịch chỉ có 1 màn, kể về cô nữ cứu thương tiễn người yêu là anh bộ đội lên đường trong một đêm trăng sáng, khoác cho anh chiếc áo cô may tặng anh cho bớt lạnh. Nguyễn Bính thủ vai anh bộ đội, còn Đoàn Giỏi giả gái đóng cô cứu thương. Đêm diễn thành công đến nỗi nó đã được nhắc lại trong rất nhiều hồi ký của người cùng thời như Hoàng Tấn, Phạm Tường Hạnh...
Thể loại ký cũng có những đóng góp đáng chú ý trong văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ. Trong suốt 9 năm, ký luôn chứng minh là người thư ký nhạy bén và trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, lưu giữ lại những sự kiện nóng bỏng, những gian khổ và niềm vui của những ngày tháng một đi không trở lại.
Riêng Đoàn Giỏitrong kháng chiến chống Pháp cũng đóng góp khá nhiều bút ký, năm 1946 bài tùy bút Hướng về thủ đô của ông cũng được đăng trên tờ Thông tin Mỹ Tho. Ngoài ra ông còn có Khí hùng đất nước, Người Nam thà chết không hàng, Những dòng chữ máu Nam kỳ bốn mươi, Chiến sĩ Tháp Mười… Tiếc rằng rất nhiều bút ký kháng chiến của ông đã bị thất lạc, chưa sưu tầm lại được.
Với thể loại truyện ngắn, Đoàn Giỏi cũng có những đóng góp rất quan trọng. Ông đã xây dựng nên những nhân vật thiếu nhi, nông dân đầy anh dũng, trong đó tiêu biểu là nhân vật thiếu niên Nguyễn Văn Xe trong truyện ngắn Em đã cầm cờ xung phong cho bộ đội tiêu diệt đồn Bắc Sa Ma trong chiến dịch Cầu Kè.

Chiếu trích đoạn phim truyền hình “Đất phương Nam”, chuyển thể từ truyện “Đất rừng phương Nam”. Ảnh: Đậu Thanh Sơn
Tuy chưa tạo ra được những nhân vật cụ thể, đầy đặn, có cá tính, có chiều sâu, nhưng những truyện ngắn này vẫn để lại bản sắc Nam bộ đậm đà. Với bản sắc ấy, bà má Năm Căn của Đoàn Giỏi, cùng với nhân vật em Tiền của Minh Lộc, vẫn có thể sánh ngang với một ông Hai đầy dằn vặt nội tâm và đau đáu yêu làng của Kim Lân hoặc cô Mị khốn khổ nơi núi rừng Tây Bắc của Tô Hoài. Họ đóng góp cho bức tranh văn học kháng chiến cả nước sắc thái khẳng khái, bộc trực, hồn nhiên rất Nam bộ.
Riêng Đoàn Giỏi còn không cho bà má Năm Căn trong truyện ngắn Cây đước Cà Mau một cái tên, nhưng cuộc đời lận đận của má, sự hồn hậu chân tình, lòng thương con, thương chiến sĩ, thương Bác Hồ và tấm lòng hướng về miền Bắc lại đại diện cho mọi bà mẹ khác của xứ Cà Mau và của Nam bộ rộng lớn.
Một người mẹ cụ thể đã trở thành biểu tượng của một vùng đất, bà má Năm Căn từ truyện ngắn của Đoàn Giỏi trở thành nguồn cảm hứng cho thơ nhạc về sau, ví dụ như trong bài thơ Bà má Năm Căn (1961) của Xuân Diệu, hoặc trong bài thơ Trường Sơn (1968) của Gia Dũng, sau này nổi tiếng hơn khi được nhạc sĩ Trần Chung phổ nhạc thành Bài ca Trường Sơn.
Ngoài những thành công ở thể loại truyện ngắn, còn phải kể đến truyện vừa Cá bống mú của Đoàn Giỏi, được giải Khuyến khích của Giải Văn nghệ 1954 - 1955do Hội Văn nghệ Việt Nam trao tặng. Đây là 1 trong những tác phẩm dài hơi hiếm hoi của văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ nói riêng và văn học kháng chiến chống Pháp nói chung.
Tác phẩm kể câu chuyện tâm linh, huyền bí để giải thích một hiện tượng tự nhiên là sự sụt lở của những vùng ven sông ở miền đất Cửu Long Giang. Đoàn Giỏi đã dùng câu chuyện cá bống mú thần đào hang quậy phá dưới lòng đất để răn đe những kẻ gian ác, chúng thường xây những biệt thự sang trọng đồ sộ ngay mé sông. Nếu chúng không biết ăn năn hối cải, vẫn đang tâm cướp bóc tàn nhẫn tá điền, thì quả báo là điều chắc chắn.
Ngoài sáng tác, Đoàn Giỏi còn giới thiệu và dịch một số tác phẩm nước ngoài, như Anh chỉ nói với em về niềm hy vọng của nhà văn cách mạng Jorge Amado, người Brazil, đăng trên Thông tin Rạch Giá (1950), Bà mẹ kiên nhẫn của nhà thơ Pierre Gamarra, người Pháp, đăng trên Văn nghệ miền Nam (1951)…
Thành tựu của văn học kháng chiến chống Pháp trên phạm vi cả nước còn rất khiêm tốn, văn học kháng chiến của Nam bộ, do hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, lại chịu nhiều mất mát, lãng quên. Đoàn Giỏi, với những đóng góp nhiều mặt của mình, đã trở thành một nhà văn tiêu biểu của văn học kháng chiến ở Nam bộ, góp phần làm phong phú cho văn học kháng chiến nói chung.