"Bỏng là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật, bao gồm thời gian nằm viện kéo dài, biến dạng, tàn tật và kỳ thị", bác sĩ Vũ Duy Linh, khoa Da liễu và Bỏng, Bệnh viện Bạch Mai, phát biểu tại Hội nghị Khoa học chuyên ngành Da liễu và Bỏng ngày 1/11.
Tại Bệnh viện Bạch Mai, chỉ trong 9 tháng đầu năm, khoa Da liễu và Bỏng đã hội chẩn cho hơn 3.500 bệnh nhân nội trú và khám cho 5.600 lượt ngoại trú từ các chuyên khoa khác. Con số này cho thấy các vấn đề về bỏng và da liễu thường đi kèm với nhiều bệnh nền phức tạp như đái tháo đường, ung thư, các bệnh lý sản khoa, ngoại khoa.

Một bệnh nhân bị di chứng sẹo co kéo điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: Nguyên Hà
Thực tế, không có chấn thương nào nghiêm trọng hơn bỏng nặng. Hậu quả của nó tác động lên cả thể chất và tinh thần, được xem như một bệnh lý mãn tính. Về thể chất, người bệnh chịu đựng sẹo co kéo, rối loạn sắc tố, đau và ngứa kéo dài. Một nghiên cứu chỉ ra 93% bệnh nhân bị ngứa sau bỏng, và sau hai năm, tỷ lệ này vẫn còn 73%.
Về tâm lý, họ thường sống trong mặc cảm, trầm cảm, rối loạn lo âu và căng thẳng sau chấn thương. Điều này dẫn đến việc ngại giao tiếp, khó hòa nhập cộng đồng, mất việc làm hoặc giảm khả năng lao động. Gánh nặng kinh tế cũng vô cùng lớn do chi phí điều trị kéo dài, phẫu thuật tạo hình nhiều lần, vật lý trị liệu và mất thu nhập. Chi phí cho phục hồi chức năng sau bỏng cao gấp 4,4 lần so với điều trị đợt cấp.
Trên thế giới, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính mỗi năm có khoảng 180.000 ca tử vong do bỏng, phần lớn ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Một nghiên cứu của Hàn Quốc còn dự báo đến năm 2050, số bệnh nhân bỏng nhẹ toàn cầu sẽ tăng 200% và bỏng nặng tăng hơn 100% so với năm 2020.
Hiện nay, trình độ điều trị bỏng ở Việt Nam đã phát triển ngang tầm khu vực với nhiều kỹ thuật tiên tiến như cắt hoại tử ghép da sớm, nuôi cấy tế bào da tự thân, giúp nâng cao tỷ lệ hồi phục. Các phương pháp điều trị sau bỏng như laser, tiêm botox... cũng giúp người bệnh giảm nhẹ di chứng, tái hòa nhập cuộc sống.
Tuy nhiên, ngành bỏng đang đối mặt với thách thức lớn về nhân lực. "Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu nguồn lực, chuyên gia, bác sĩ bỏng ở các cơ sở y tế, đồng thời việc đào tạo nhân lực y tế ngành bỏng cũng chưa được quan tâm", một chuyên gia nhận định. Do đó, việc đẩy mạnh đào tạo chuyên sâu về bỏng được xem là yêu cầu cấp thiết để đáp ứng nhu cầu điều trị ngày càng tăng.
Lê Nga



































