Cuối tháng 11, tại TP Hwaseong, tỉnh Gyeonggi, chị Bảy cầm micro phiên dịch suốt 4 tiếng trong lễ ra mắt Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam ở Hwaseong - Suwon - Osan. Ngay khi sự kiện kết thúc, người phụ nữ 39 tuổi lái xe về nhà để dựng video dạy nấu canh sườn bò, muối kim chi và hướng dẫn phỏng vấn thị thực kết hôn cho các cô dâu chuẩn bị về nhà chồng ở xứ kim chi.

"Tôi làm tất cả những việc này để các cô dâu mới sang không còn bỡ ngỡ như mình ngày trước", chị nói.

2E538991-7552-475F-A6AD-1015BB-9700-1986-1764940755.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=tC4DQtb0lF-kwMmhFrufcQ

Chị Nguyễn Thị Bảy (bìa trái) phiên dịch trong một sự kiện ở tỉnh Gyeonggi-do, Hàn Quốc. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Năm 2008, vừa tốt nghiệp đại học, chị Bảy kết hôn với người chồng Hàn Quốc hơn 14 tuổi qua mai mối. Dù đã tự học tiếng Hàn đạt trình độ trung cấp (Topik 4) trước khi đi, cuộc sống tại TP Yongin, tỉnh Gyeonggi vẫn khác xa tưởng tượng của cô gái trẻ.

Nửa năm đầu, chị chật vật rải hồ sơ xin việc nhưng bị từ chối vì các vị trí văn phòng đòi hỏi tiếng Hàn cao cấp, còn nghề phục vụ ưu tiên người bản địa. Áp lực lớn nhất không đến từ kinh tế mà từ định kiến. "Cứ 5 người gặp thì 3 người hỏi tôi: Chồng có cho nhiều tiền không? Mỗi tháng gửi về Việt Nam bao nhiêu?", chị nhớ lại.

Những câu hỏi mang nặng định kiến về việc phụ nữ Việt "nhắm mắt lấy chồng Hàn để hỗ trợ kinh tế cho gia đình" khiến chị nhiều lần muốn buông xuôi.

Bước ngoặt đến sau 9 tháng, khi chị được nhận vào làm tại Trung tâm Hỗ trợ Gia đình đa văn hóa. Công việc tư vấn, phiên dịch giúp chị thấu hiểu sâu sắc những xung đột trong các gia đình Việt - Hàn. Vừa làm, chị vừa học thêm về tâm lý và trau dồi ngôn ngữ, chuẩn bị cho những cơ hội lớn hơn.

Năm 2013, chị trở thành nhân viên người Việt duy nhất trong bộ phận phiên dịch của công ty điện tử Samsung Electronics, theo chân kỹ thuật viên sang Việt Nam đào tạo. "Lúc đầu, tôi lo lắng người nước ngoài sẽ bị kỳ thị, nhưng điều đó không xảy ra", chị kể. "Họ giúp đỡ, giao những công việc quan trọng, khiến tôi cảm thấy bản thân được trân trọng".

Sau khi sinh con, chị tiếp tục thử sức ở một tòa án tại Seoul. Hàng ngày, chị lái xe ba tiếng đi làm, trong khi chồng hỗ trợ việc nhà và chăm con - một sự phân chia lao động khác hẳn truyền thống tại Hàn Quốc, nơi đàn ông đi làm, người vợ ở nhà lo toàn bộ việc chăm sóc gia đình, con cái.

Năm năm trước, nhận thấy nhiều cô dâu mới vẫn gặp cú sốc văn hóa, chị lập kênh YouTube chia sẻ kinh nghiệm sống và công thức nấu ăn học từ mẹ chồng. Hai năm qua, chị còn dịch Sổ tay Thẩm phán để phía Hàn Quốc hiểu rõ hơn về Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam từ đó thay đổi cái nhìn của tòa án Hàn Quốc về cô dâu Việt.

3F8F9087-93D7-4C23-879B-63C80F-5609-5186-1764940755.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=0yC82lBIFZqCvhuJ8ptKUQ

Gia đình chị Nguyễn Thị Bảy ở TP Yongin, tỉnh Gyeonggi-do, Hàn Quốc. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Câu chuyện nỗ lực khẳng định bản thân của chị Bảy không phải là cá biệt trong cộng đồng hơn 110.000 phụ nữ Việt kết hôn với nam giới Hàn Quốc từ năm 2000 đến nay.

Theo ông Park Nark Jong, cựu giám đốc Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam, cô dâu nước ngoài bắt đầu xuất hiện nhiều từ cuối thập niên 90. Khi đó, các cuộc hôn nhân chủ yếu qua môi giới, người vợ thường ở thế yếu, gặp rào cản ngôn ngữ và phụ thuộc kinh tế. Tuy nhiên, sau 20 năm, cục diện đã thay đổi.

"Nhiều phụ nữ Việt hiện nay tích cực tham gia hoạt động xã hội, tự chủ kinh tế và trở thành cầu nối văn hóa thực thụ giữa hai quốc gia", ông Park nhận định.

Thực tế, những người phụ nữ như chị Bảy không còn là ngoại lệ. Số liệu của Cục Thống kê Hàn Quốc năm 2024 cho thấy cô dâu Việt chiếm 33,5% tổng số cô dâu ngoại quốc, cao gấp đôi so với Trung Quốc và gấp ba lần Thái Lan. Các gia đình Hàn - Việt đã đóng góp lớn vào mức tăng 10,4% số trẻ em sinh ra từ các gia đình đa văn hóa trong năm qua, và trở thành nhân tố không thể thiếu trong cấu trúc dân số và xã hội Hàn Quốc hiện đại.

Dù vị thế đã được nâng cao, hành trình hòa nhập chưa bao giờ bằng phẳng. Trong những năm đầu mới sang, rào cản ngôn ngữ và sự khác biệt trong nếp sinh hoạt -từ khẩu vị món ăn đến quan điểm nuôi dạy con cái - thường là ngòi nổ cho các mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu. Đặc biệt, áp lực gửi tiền về hỗ trợ gia đình tại Việt Nam hay định kiến coi cô dâu ngoại là "đối tượng cần đồng hóa" từng khiến nhiều chị em rơi vào trầm cảm.

Tuy nhiên, bức tranh này đang thay đổi tích cực nhờ sự góp sức của chính những cô dâu Việt như chị Bảy. Theo Khảo sát Quốc gia về Gia đình Đa văn hóa của Hàn Quốc công bố năm 2024, tỷ lệ người nhập cư kết hôn gặp phân biệt đối xử đã giảm xuống còn 13%, thấp hơn đáng kể so với mức 16,3% của ba năm trước. Đáng chú ý, chỉ số chấp nhận đa văn hóa của người dân nước này đã tăng lên mức cao nhất trong 9 năm qua. Xã hội Hàn Quốc đang dần cởi mở, nhìn nhận các cô dâu Việt như những đối tác bình đẳng và nhân tố không thể thiếu trong cấu trúc dân số hiện đại.

Trong đánh giá của ông Park Nark Jong, 20 năm qua, ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam thành công, giúp nhận thức xã hội Hàn về đa văn hóa cải thiện, cấu trúc xã hội thay đổi và chính sách đa văn hóa giải quyết nhiều vấn đề. Hiện, nam giới Hàn thuộc nhiều tầng lớp như công chức, bác sĩ, nhân viên tập đoàn đối xử với phụ nữ Việt Nam tôn trọng nhân phẩm, trong khi phụ nữ Việt nhờ kinh tế phát triển có thêm cơ hội theo đuổi hạnh phúc.

"Họ đã mang văn hóa tôn trọng gia đình, tự tin và khả năng thích nghi, tích cực tham gia hoạt động cộng đồng, giúp hòa nhập văn hóa và tăng sức sống cho xã hội", ông Park nói.

Sự thay đổi về vị thế này được thể hiện rõ qua trường hợp của chị Hoàng Thị Hà, trưởng nhóm hỗ trợ phụ nữ Việt tại TP Incheon.

Sang Hàn lao động và kết hôn cách đây 10 năm, chị Hà từng trải qua những ngày tháng khủng hoảng vì bất đồng ngôn ngữ với mẹ chồng. "Trong 10 cô dâu sống chung với nhà chồng, có đến 9 người xung đột vì khác biệt văn hóa", chị đúc kết.

Khi cuộc sống ổn định từ năm thứ 3, chị bắt đầu đi làm, chăm sóc con và nhận ra những khó khăn chung của cộng đồng cô dâu Việt. Chị lập cộng đồng khoảng 100 phụ nữ Việt giúp họ giao lưu, dịch giấy tờ, đưa con đi bệnh viện.

Bốn năm nay, chị thường xuyên có mặt tại các trung tâm Đa văn hóa, vận động mở các lớp tiếng Hàn miễn phí cho cô dâu Việt mới sang và lớp dạy tiếng Việt cho con của họ.

"Ngôn ngữ và sự hiểu biết là chìa khóa quan trọng nhất để xóa bỏ định kiến và hàn gắn khoảng cách giữa hai nền văn hóa", chị Hà nói.

Ngọc Ngân

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022