Kỷ luật quân đội là gì?
Kỷ luật quân đội là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương, điều lệ của Đảng; hiến pháp, pháp luật của Nhà nước phù hợp với đặc điểm, tình hình, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: "Bên cạnh lý tưởng chiến đấu, kỷ luật quân đội là điểm mấu chốt tạo nên sự thống nhất cao độ trong nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là trên chiến trường; do vậy, kỷ luật là động lực vô cùng quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội...".
Kỷ luật trong quân đội được thực hiện hết sức nghiêm túc. Ảnh minh họa: TL
Hình thức kỷ luật quân đội
Hình thức kỷ luật đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp thực hiện theo quy định của Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam và Khoản 1, Điều 50 Luật quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng được xếp từ thấp đến cao như sau:
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Hạ bậc lương;
- Giáng cấp bậc quân hàm;
- Giáng chức;
- Cách chức;
- Tước quân hàm sĩ quan;
- Tước danh hiệu quân nhân.
Ngoài ra, Thông tư cũng quy định về hình thức kỷ luật đối với hạ sĩ quan, binh sĩ thực hiện theo quy định Khoản 1, Điều 60 Luật Nghĩa vụ quân sự và hình thức kỷ luật đối với công chức, công nhân và viên chức quốc phòng thực hiện theo quy định Khoản 2, Điều 50 Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng…
GĐXH - Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, lương quân đội sẽ được tính theo số tiền cụ thể theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo. Nếu thực hiện cải cách tiền lương đúng theo dự kiến thì bảng lương mới quân đội sẽ thay đổi thế nào?
Quy định về thời hiệu hạ bậc lương, giáng chức khi vi phạm kỷ luật quân đội
Theo Khoản 1, Điều 7 của Thông tư 143/2023/TT-BQP, thời hiệu xử lý kỷ luật khiển trách được quy định là 5 năm; còn đối với các hình thức kỷ luật như cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, giáng cấp bậc quân hàm, thời hiệu xử lý là 10 năm, tính từ thời điểm có hành vi vi phạm. Nếu trong thời hiệu xử lý kỷ luật, người vi phạm có thêm hành vi vi phạm mới, thời hiệu xử lý kỷ luật đối với vi phạm cũ sẽ được tính lại, kể từ thời điểm thực hiện hành vi mới đó.
Điều quan trọng khác là với những hành vi vi phạm mà thời điểm chấm dứt được xác định, thời điểm có hành vi vi phạm sẽ được tính từ thời điểm chấm dứt. Trong trường hợp hành vi vi phạm chưa chấm dứt, thời điểm có hành vi vi phạm sẽ được tính từ thời điểm phát hiện và đối với những hành vi không xác định được thời điểm chấm dứt, thì thời điểm có hành vi vi phạm sẽ được tính từ thời điểm có kết luận của cấp có thẩm quyền.
Thông tư 143/2023/TT-BQP cũng đặt ra một số trường hợp không áp dụng thời hiệu xử lý, bao gồm các hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật tước quân hàm sĩ quan, tước danh hiệu quân nhân, buộc thôi việc; hành vi vi phạm quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, hành vi vi phạm xâm hại đến lợi ích quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại; hành vi vi phạm việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp. Đối với quân nhân, người làm việc trong tổ chức cơ yếu, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng là đảng viên có hành vi vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật bằng hình thức khai trừ.
Quy định về thời hạn xử lý kỷ luật quân đội từ ngày 15/02/2024
Tại Khoản 2, Điều 7 trong Thông tư 143/2023/TT-BQP, quy định về thời hạn xử lý kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã được đặt ra với sự cụ thể và linh hoạt. Theo đó, thời hạn xử lý kỷ luật không được vượt quá 90 ngày. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ việc có những tình tiết phức tạp đòi hỏi sự thanh tra, kiểm tra, xác minh chi tiết để làm rõ, thì thời hạn xử lý kỷ luật có thể được kéo dài, nhưng tối đa không quá 150 ngày.
Sự linh hoạt và sự hiểu biết về tính chất đặc biệt của các vụ việc, như được thể hiện trong quy định về thời hạn xử lý kỷ luật trong Thông tư 143/2023/TT-BQP, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quy trình xử lý diễn ra một cách công bằng và chặt chẽ. Việc xác định thời hạn cụ thể không chỉ là một biện pháp quản lý mà còn tạo ra một kỳ vọng rõ ràng về quy trình đối với tất cả các bên liên quan.
Quy định về thời hạn xử lý kỷ luật không quá 90 ngày, có thể kéo dài tối đa 150 ngày trong những trường hợp phức tạp, là một biện pháp linh hoạt nhằm đối mặt với sự đa dạng và đặc biệt của các vụ việc. Điều này cho phép các cơ quan có thời gian đủ để tiến hành thanh tra, kiểm tra, xác minh một cách toàn diện, đồng thời đảm bảo rằng quá trình này không bị chấn động hay gặp trở ngại không cần thiết.
Thời hạn cụ thể giúp bảo vệ quyền lợi của những người liên quan, đặc biệt là người bị kỷ luật, bằng cách tạo ra một môi trường dựa trên quy trình và công bằng. Sự minh bạch trong việc xác định thời hạn cũng đồng nghĩa với việc đặt ra kỳ vọng rõ ràng về quy trình xử lý, giúp mọi bên liên quan hiểu rõ quy trình và thời kỳ mà họ có thể chờ đợi quyết định.
Tổng cộng, quy định này không chỉ là một biện pháp quản lý hiệu quả mà còn là một cơ sở để xây dựng niềm tin và sự hỗ trợ từ phía cộng đồng quân sự. Sự linh hoạt và sự hiểu biết trong việc thiết lập thời hạn xử lý kỷ luật giúp tạo ra một môi trường quân sự mạnh mẽ, công bằng, và đồng thuận. Quy định này cũng phản ánh cam kết của Bộ Quốc phòng đối với việc duy trì sự hiệu quả trong quá trình xử lý kỷ luật, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong các quyết định liên quan đến kỷ luật trong Quân đội nhân dân.
Mọi vi phạm kỷ luật trong quân đội được xử lý kịp thời và nghiêm minh. Ảnh minh họa: TL
Nguyên tắc xử lý kỷ luật quân đội
Theo Điều 4, Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định nguyên tắc xử lý kỷ luật quân đội gồm:
- Mọi vi phạm kỷ luật phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh; hậu quả do vi phạm kỷ luật gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
- Việc xử lý vi phạm kỷ luật được tiến hành nhanh chóng, chính xác, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật.
- Việc xử phạt vi phạm kỷ luật phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
- Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật; không áp dụng các hình thức kỷ luật khác thay cho hình thức kỷ luật được pháp luật quy định.
- Không áp dụng hình thức kỷ luật tước danh hiệu quân nhân và buộc thôi việc đối với nữ quân nhân, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng khi mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
- Không áp dụng hình thức kỷ luật giáng cấp bậc quân hàm đối với quân nhân đang giữ cấp bậc quân hàm thiếu úy; không áp dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lương đối với công chức, công nhân và viên chức quốc phòng đang hưởng lương bậc 1.
- Khi xử lý kỷ luật, ngoài hình thức kỷ luật đối với từng hành vi vi phạm, nếu vi phạm gây thiệt hại về vật chất, người vi phạm còn phải bồi thường. Tài sản, tiền, vật chất do hành vi vi phạm mà có, phải được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
- Mỗi hành vi vi phạm kỷ luật quân đội chỉ xử lý một hình thức kỷ luật; nếu cùng một lần vi phạm kỷ luật mà người vi phạm thực hiện nhiều hành vi vi phạm khác nhau thì phải xem xét, kết luận, làm rõ mức độ vi phạm và hình thức kỷ luật đối với từng hành vi vi phạm nhưng chỉ áp dụng hình thức kỷ luật chung cho các hành vi vi phạm và không vượt quá hình thức kỷ luật của hành vi có mức xử lý kỷ luật cao nhất.
Trường hợp xử lý nhiều hình thức kỷ luật quân đội (hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm với cách chức hoặc giáng chức) do cấp có thẩm quyền quyết định.
- Người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên (sau đây gọi chung là người chỉ huy) các cấp phải chịu trách nhiệm về tình hình vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của quân nhân thuộc quyền; tùy tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả gây ra của vụ việc và mức độ liên quan đến trách nhiệm của người chỉ huy trực tiếp và trên một cấp để xác định hình thức kỷ luật theo quy định tại Thông tư 16/2020/TT-BQP.
- Người thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật quân đội có dấu hiệu tội phạm, thì cơ quan, đơn vị không giảm quân số quản lý mà chuyển hồ sơ vi phạm sang cơ quan điều tra trong quân đội để xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp bị tòa án xét xử và tuyên phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì chỉ giải quyết chế độ, chính sách khi đã có quyết định thi hành án của tòa án.