Tôi nghĩ nhiều độc giả sẽ có cả tò mò lẫn băn khoăn về câu chuyện "nỏ thần" liên quan đến An Dương Vương, Cao Lỗ, Trọng Thủy, Mỵ Châu cách nay trên hai ngàn năm. Buổi "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất" hôm nay sẽ phần nào làm rõ câu chuyện ấy.

Xem chuyên đề Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất TẠI ĐÂY

1. Trong tiến trình kỹ thuật của nhân loại, cung nỏ được xếp vào tiến trình kỹ thuật dựa trên sức bật đàn hồi, được cho là ra đời cách nay trên dưới 100 ngàn năm, gắn với sự xuất hiện của người hiện đại (modern human). Dụng cụ đơn giản nhất chính là những cánh cung hay bẫy bật, mà sức căng bật dựa vào các thân cành thực vật có độ bền dẻo phù hợp.

Ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Nam Á cổ đại, các loài tre trúc thường được chọn. Trong khuôn khổ bài viết hôm nay, tôi chỉ tập trung nói về cung nỏ nên sẽ không đả động đến những loại bẫy bật khác.

Giữa cung và nỏ, đương nhiên cung có trước. Cung là dụng cụ tối giản, chỉ với một đoạn cây, cành đàn hồi được buộc dây căng hai đầu tạo sẵn độ cong chứa sức bật của cây cung. Khi muốn tạo lực bật đàn hồi, người ta chỉ cần kéo căng dây cung và thả ra là được. Cung như vậy có thể bắn đi những viên đạn, nhưng phổ biến và chính xác hơn là những mũi tên có thân cán dài, nặng, thích hợp với độ bay xa và đâm xuyên gây sát thương.

Sự phát triển của cung, ngoài việc chính là tìm vật liệu đàn hồi tốt làm cánh cung, dây cung, còn lại là sự trau chuốt tạo điểm tựa vững bền, chắc chắn cho hai đầu cánh cung bằng cách táp thêm phần đầu đỡ dây cung bằng kim loại, xương, sừng… Phần tay cầm chính giữa cánh cung cũng là tâm điểm gia cố và trang trí sao cho thuận tiện với tay cầm của chủ nhân.

Nhiều nhà ngôn ngữ đã thảo luận và đều nhất trí rằng âm "nỏ" có nguồn gốc phương Nam, và chữ "Nỗ" trong văn tự và ngôn ngữ Trung Hoa cổ đại chính là cách ghi âm "nỏ" phương Nam đó.

Dây cung thường được chọn từ những sợi thực vật có độ bền cao như gai, lanh… được gia cố thêm bằng sáp, nhựa cây, máu, huyết tương động vật. Cũng có nhiều loại dây cung chế từ gân, da động vật ăn cỏ, hay bện bằng tóc người, đuôi ngựa.

Cuối cùng là sự đầu tư cho các mũi tên sao cho có độ bay thẳng, đi xa, dễ trúng đích nhất, với sự thích ứng hoàn chỉnh giữa mũi tên, thân và vè đuôi.

2. Nỏ là sự phát triển muộn hơn của cung, khi gá thêm phần thân gỗ đỡ cánh cung để giải phóng hai tay kéo dây cung và hãm nó ở độ căng cần thiết. Phần đỡ cung giúp xạ thủ ngắm bắn chính xác hơn thay vì phải dựa vào cảm giác, thói quen bắn cung.

Đặc biệt, trong việc "nâng cấp" vũ khí bắn xa, hệ kỹ thuật nỏ còn tạo cơ hội nhiều hơn trong việc tăng số lượng tên mỗi lượt bắn và chủ động hãm giữ khi bắn. Câu chuyện nỏ thần Cao Lỗ chính là nằm ở những sáng chế trong lĩnh vực này.

2a-1764196195656261163182.jpg2b-1764196195733950702254.jpg

Hình trái: Phần gỗ sơn then ốp chặt phần lẫy nỏ bằng đồng nối với phần rãnh đặt mũi tên (hiện vật trưng bày tại Bảo tàng Cernuschi, Paris, Pháp). Hình phải: Một lẫy nỏ Giao Chỉ gồm 6 bộ phận bằng đồng phát hiện ở Việt Nam (sưu tập CQK, California, Mỹ)

Hiện tại cũng còn sớm để truy về kỹ thuật nỏ ra đời khi nào và ở đâu. Tuy nhiên, có thể thừa nhận hai điểm sau: Thứ nhất, nỏ được sử dụng ở nhiều nền văn minh trên thế giới, từ Ai Cập, Hy Lạp - La Mã đến Ấn Độ, Trung Hoa và Đông Nam Á. Thứ hai, nỏ được sử dụng phổ biến và ổn định từ trên hai ngàn năm cho đến nay ở nhiều dân tộc Đông Nam Á cổ đại, trong đó văn hóa Đông Sơn đang có những bằng chứng vào loại đầy đủ nhất.

Về dữ kiện khảo cổ, từ thế kỷ 5 trước Công nguyên, nỏ và máy nỏ (cò hãm, nỗ cơ kim loại) đã xuất hiện trong chiến đấu từ các quốc gia vùng Hoàng Hà, Trường Giang (Trung Quốc) đến lưu vực Mê Kông, Hồng Hà, sông Mã, sông Chu, sông Hiếu, sông Cả… (Lào, Thái Lan, Việt Nam). Tôi hy vọng khi phân tích thật kỹ tình trạng của ngôi mộ lớp sớm nhất ở Gò Vườn Chuối (Hà Nội) mang theo 9 mũi tên - mà tôi đã giới thiệu ở bài trước - ta sẽ nhận ra vật đeo trên vai phải chủ nhân là cung hay nỏ.

Dù sao, bản tấu chương của Mã Viện - Phục Ba Đại tướng quân nhà Đông Hán sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng đầu thế kỷ 1 sau Công nguyên - gửi về cho Hoàng đế nhà Hán đã hé mở dự định tập hợp ba đến năm ngàn tay nỏ người Lạc Việt ở Giao Chỉ đưa về giúp nhà Hán chống nổi loạn tại chính quốc. Sự kiện này có thể đặt cạnh câu chuyện về việc Khổng Minh nước Thục thời Tam Quốc phải đối phó với Mạnh Hoạch (vùng Vân Nam, Quý Châu - Trung Quốc), nổi tiếng vì có những máy nỏ liên châu. Sau khi diệt Mạnh Hoạch, Khổng Minh Gia Cát Lượng đã dựa vào đó chế ra nỏ liên châu mang tên mình, khẳng định nguồn gốc "phương Nam" của thế giới cung nỏ đương thời. Nhiều nhà ngôn ngữ đã thảo luận và đều nhất trí rằng âm "nỏ" có nguồn gốc phương Nam, và chữ "Nỗ" trong văn tự và ngôn ngữ Trung Hoa cổ đại chính là cách ghi âm "nỏ" phương Nam đó.

3. Nỏ phương Nam được các nhà sáng chế vũ khí phương Bắc hoàn thiện và phát triển rất sớm, trở thành một loại vũ khí "quân vương" chứ không dùng thông dụng trong quân đội thời Chiến Quốc. Tại nước Sở, một tiểu quốc gốc phi Hoa Hạ rất hùng mạnh ở vùng lưu vực Trường Giang, đã có những vị thợ cả chế đồ dùng cung đình, vũ khí cho triều đình, trong đó có nỏ, được phong đến hàng Tể tướng. Tên của ông được phép khắc ghi trên những đồ đó.

3a-17641961957201368934404.jpg3b-17641961956891891952473.jpg

Hình trái: Mô hình nhà Giao Chỉ có tầng lầu với những xạ thủ cầm nỏ đứng ở các góc (ảnh chụp từ sách Nguyễn Việt, 2010, Hà Nội thời Tiền Thăng Long, NXB Hà Nội). Hình phải: Một tầng lầu nhà thời Hán, trên vách treo nỏ và khiên mộc (ảnh chụp từ catalogue trưng bày về Vương triều Hán tại Osaka, Nhật Bản, 2000 - bản tiếng Nhật)

Hiện nay, tại nhiều bảo tàng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp… đều lưu giữ những chiếc nỏ gỗ sơn mài gắn máy nỏ kim loại, chạm khảm vàng, bạc và minh văn rất đẹp, cùng các mũi tên đồng cắm trên đầu cán gỗ sơn và vè lông chim. Những nỏ như vậy tồn tại ở đất Giao Chỉ còn nhiều hơn nếu dựa vào thống kê phần lẫy nỏ (cơ nỗ) bằng đồng phát hiện được. Những quý tộc Đông Sơn thời Bắc thuộc đã cho đúc và sử dụng rất phổ biến loại vũ khí truyền thống đặc sản của mình. Phần cán gỗ sơn then và cánh cung có dây của nỏ thường chỉ còn dấu vết trong các cuộc khai quật, nhưng phần máy lẫy nỏ bằng đồng còn lại ghi nhận số lượng hàng trăm chiếc đã phát hiện ở miền Bắc Việt Nam, trong đó những chiếc sớm nhất hiện biết có niên đại thế kỷ 3 - 4 trước Công nguyên.

Trong bài viết tuần sau, tôi sẽ đi sâu hơn vào cấu tạo của các loại lẫy nỏ kim loại đã phát hiện được trong khung cảnh khảo cổ học Đông Sơn, trước khi bước vào câu chuyện mũi tên ba cạnh và "nỏ thần", "thần nỏ" Cổ Loa.

(Còn tiếp)

XEM THÊM TIN TỨC VĂN HOÁ TẠI ĐÂY

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022