Nhắc đến rạp hát lâu đời ở Hà Nội, khán giả đa phần nhớ đến Nhà hát Lớn. Công trình ra đời hơn 100 năm trước, mang dấu ấn của người Pháp, chứng kiến thăng trầm lịch sử và văn hóa thưởng thức nghệ thuật ở thủ đô. Không chỉ Nhà hát Lớn, cuối thế kỷ 19đến giữa thế kỷ 20, Hà Nội cònquy tụ nhiều rạp hát phục vụ nhu cầu giải trí của người dân.

Năm 1873, Pháp chiếm thành phố khiến nơi đây có nhiều thay đổi, từ cảnh quan, kiến trúc đến việc tiếp cận nghệ thuật với sự ra đời của những rạp hát kiểu phương Tây. Theo Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, nhà hát đầu tiên được xây dựng ở đầu phố Takou (nay là Hàng Cót) năm 1887, dành cho các gánh tuồng từ Trung Hoa và nhóm nhạc từ Pháp sang biểu diễn. Công trình nhỏ song đáp ứng nhu cầu giải trí cho giới quan chức, quý tộc người Pháp ở Hà Nội thời điểm ấy.

Những địa điểm biểu diễn nghệ thuật nhỏ lần lượt xuất hiện sau đó như Kinh Kỳ hý viện ở phố Lương Văn Can - rạp hát tuồng đầu tiên của người Việt tại Hà Nội. Gần đó là rạp Năm Chăn, thuộc phố Hàng Quạt (nay là Nhà hát Ca múa nhạc Thăng Long), nơi hay diễn tuồng cổ.

Năm 1916, rạp Quảng Lạc (hiện là số 8 Tạ Hiện, Nhà hát Kịch Hà Nội quản lý) được thành lập, chuyên diễn tuồng hoặc hát bội. Trong cuốn Le Tonkin pittoresque (1925), tác giả Michel My cho biết khi cùng bạn đến lúc 21h xem tác phẩm Tam Quốc, dù vở diễn đã bắt đầu được một lúc, khán giả vẫn đứng chen chúc ngoài cửa để có được vé.

quang-cao-jpg-1755459636-9033-1755474493.png?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=QDoJSFKT2XqCevEBPYZokQ

Quảng cáo vở diễn tại rạp Quảng Lạc. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Những năm 1920, cải lương bắt đầu được ưa chuộng ở thủ đô. Nhiều thanh niên yêu thích loại hình nghệ thuật này mua đĩa do hãng thu âm Pathé và Béka sản xuất để nghe, sau đó lập những nhóm cải lương nghiệp dư. Hai trong số nhóm có tên tuổi lúc bấy giờ là Tài tử Đồng ấu và Tài tử phố Hàng Giấy.

Đến năm 1927, Nghĩa Hiệp Ban là gánh cải lương đầu tiên từ Sài Gòn ra Hà Nội biểu diễn, tổ chức tại rạp Quảng Lạc. Trên tờ Hà Thành ngọ báo khi ấy có quảng cáo: ''Nghĩa Hiệp Ban là một ban hát cải lương của M. Nguyễn Văn Đẩu Sài Gòn, cả thảy vừa đào, vừa kép vừa nhạc công có đến non năm chục (50) người, dạo khắp Nam kỳ và Trung kỳ, nơi nào cũng được liệt quý khán giả hoan nghênh. Nay mới là lần thứ nhất ra đến xứ Bắc kỳ ta, thì lưu trú tại Quảng Lạc hý viện. Định đến tối chủ nhật ngày 20/11/1927 bắt đầu khai diễn Anh hùng náo (Sở Vân té lầu). Tấn hát nầy đáng vai tuồng lắm, mỗi vai đều có điệu bộ riêng... Nhiều cảnh bài trí rất lạ! Phục sức nhiều bộ rất đẹp: Ca xoang nhiều bài rất lý thú! Âm nhạc nhiều khúc rất du dương! Lại có vai mặc theo lối tuồng cải lương lạ lùng, xưa nay chưa hề thấy có ở Hà Nội ta bao giờ''.

rap-quang-lac-1-1755689799-4117-1755749912.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=P8r8uOvZVQga9SP6xT0FLw

Rạp Quảng Lạc bị cháy năm 1997. Ảnh: Nguyễn Hữu Bảo

Trung tâm giao lưu văn hóa phố cổ Hà Nội hiện nay được xây dựng trên nền cũ của rạp hát Sán Nhiên Đài. Ban đầu, nơi đây để biểu diễn chèo, sau đó thêm cải lương. Năm 1940, rạp trở thành nơi diễn chính của Nhật Tân Ban - gánh hát cải lương do các ông Doãn Bá Chính, Trần Quang Cầu lập khoảng năm 1935.

Đây cũng từng là địa chỉ tập trung của đoàn ca kịch Anh Vũ do nhà thơ Thế Lữ phụ trách. Năm 1944-1945, đoàn dùng rạp làm địa điểm tuyển đào kép cho chuyến đi xuyên Việt. Sau năm 1950, Sán Nhiên Đài đổi tên thành Lạc Việt. Khoảng những năm 1960, đất nước khó khăn, công trình trở thành chỗ ở tập thể cho các nghệ sĩ và người thân. Tuy nhiên một trận hỏa hoạn cuối thập niên 1980 làm rạp bị cháy, khiến các gia đình phải sống tạm bợ nhiều năm đến khi được di dời để xây dựng Trung tâm Giao lưu văn hóa phố cổ Hà Nội.

Những năm đầu thế kỷ 20, khi ở Hà Nội, tác giả Hồ Văn Lang có dịp đến xem hai rạp Quảng Lạc và Sán Nhiên Đài. Ông mô tả: ''Rạp Quảng Lạc thì hát theo lối Nam Kỳ, nên người Nam Kỳ ra đây hát nhiều. Còn rạp Sán Nhiên Đài kêu là rạp Hát Chèo thì hát theo lối Bắc, toàn người Bắc hát, vì người Nam không thể nhái theo lối nầy được, vì dọng (giọng) khó bắt chước''. Qua quan sát của tác giả, khi hai rạp sáng đèn đều có không khí trang nghiêm, trong đó quy định khán giả không được hút thuốc, đi giày nhẹ nhàng.

Chuông Vàng ở số 72 Hàng Bạc cũng là rạp hát lớn và hoạt động thường xuyên nhất ở Hà Nội giai đoạn này, có nhiều dấu ấn trong đời sống giải trí của thị dân, theo nhà văn Trương Quý.

Ban đầu, nơi đây là Nhà hát Thăng Long, chuyên diễn những loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam như tuồng, chèo. Năm 1925, rạp trở thành nơi chuyên diễn cải lương, đổi thành Cải lương hý viện. Khoảng đầu thập niên 1940, những người Hoa ở phố Tạ Hiện mua lại công trình, lấy tên Cinema Trung Quốc, chiếu những phim Hong Kong. Năm 1951, nữ nghệ sĩ Kim Chung cùng chồng là Trần Viết Long mua rạp hát, lập đoàn cải lương Kim Chung nức tiếng Hà Nội lúc bấy giờ và đổi tên rạp thành Văn Lang.

rap-chieu-bong-jpg-1755459577-2968-1755474493.png?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=d83AiV9ilyCwc3UfB4XYRw

Cinema Trung Quốc, sau là rạp Chuông Vàng. Ảnh: Tư liệu

Từ năm 1956 đến nay, công trình mang tên Chuông Vàng. Không chỉ biểu diễn nghệ thuật, nơi đây còn diễn ra lễ tuyên thệ ''Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh'' của các chiến sĩ cảm tử quân thủ đô vào ngày 14/1/1947. Đội cảm tử quân gồm những thanh niên, công nhân và chiến sĩ Vệ Quốc đoàn của Liên khu 1, cùng đồng lòng nêu: ''Chúng ta thề sống chết với thủ đô Hà Nội, giặc Pháp muốn chiếm thủ đô Hà Nội, nhưng chúng ta còn thì thủ đô không bao giờ mất''.

Rạp cũng là nơi ghi dấu tài nghệ các tên tuổi như soạn giả cải lương Sĩ Tiến, Khánh Hợi, Kim Chung, vợ chồng nghệ sĩ Kim Xuân - Tiêu Lang, bố mẹ của Nghệ sĩ Nhân dân Như Quỳnh. Một trong những vở cải lương ăn khách nhất của rạp Chuông Vàng là Kiều, do Kim Xuân và Tiêu Lang đóng chính.

nha-hat-chuong-vang-1755829584-2950-1755830206.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=fzEv3VDg5zoLxVEQD_Q8XA

Rạp Chuông Vàng ngày nay. Công trình từng được nâng cấp từ tháng 11/2017 đến tháng 3/2018. Ảnh: Đoàn Cải lương Chuông Vàng

Nhà văn Trương Quý nhận định ba rạp hát Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài, Chuông Vàng là ''tam giác vàng son của nghệ thuật sân khấu Hà Nội'' khi chỉ nằm cách nhau khoảng 150 m. Sự xuất hiện của ''tam giác'' này giúp đời sống người dân thêm màu sắc, cạnh tranh mạnh mẽ trước sự xâm lấn của điện ảnh tại các rạp chiếu phim lúc bấy giờ. Theo thời gian, nhiều rạp hát nổi tiếng ở Hà Nội thế kỷ trước không còn nguyên vẹn song dấu ấn về những đêm diễn tuồng, bội, cải lương vẫn hiện hữu, là một phần ký ức tự hào của thủ đô.

Phương Linh

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022