Tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam
Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 10.761.435 ca nhiễm, đứng thứ 12/227quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 112/227 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 108.567 ca nhiễm).
Biểu đồ số ca mắc COVID-19 tại Việt Nam từ 1/7/2022 đến nay
Tình hình điều trị COVID-19
1. Số bệnh nhân khỏi bệnh:
- Bệnh nhân được công bố khỏi bệnh trong ngày: 4.081 ca
- Tổng số ca được điều trị khỏi: 9.818.357 ca
2. Số bệnh nhân đang thở ô xy là 29 ca, trong đó:
- Thở ô xy qua mặt nạ: 20 ca
- Thở ô xy dòng cao HFNC: 4 ca
- Thở máy không xâm lấn: 0 ca
- Thở máy xâm lấn: 5 ca
- ECMO: 0 ca
3. Số bệnh nhân tử vong:
- Từ 17h30 ngày 17/7 đến 17h30 ngày 18/7 ghi nhận 0 ca tử vong.
- Trung bình số tử vong ghi nhận trong 07 ngày qua: 0 ca.
- Tổng số ca tử vong do COVID-19 tại Việt Nam tính đến nay là 43.091 ca, chiếm tỷ lệ 0,4% so với tổng số ca nhiễm.
- Tổng số ca tử vong xếp thứ 24/227 vùng lãnh thổ, số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 134/227 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. So với châu Á, tổng số ca tử vong xếp thứ 6/49(xếp thứ 3 ASEAN), tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 27/49 quốc gia, vùng lãnh thổ châu Á (xếp thứ 5 ASEAN).
Tình hình tiêm vaccine COVID-19
Trong ngày 17/7 có 590.125 liều vaccine COVID-19 được tiêm. Như vậy, tổng số liều vaccine đã được tiêm là 239.244.086 liều, trong đó:
+ Số liều tiêm cho người từ 18 tuổi trở lên là 209.587.924 liều: Mũi 1 là 71.298.683 liều; Mũi 2 là 68.826.655 liều; Mũi 3 (vắc xin Abdala) là 1.511.912 liều; Mũi bổ sung là 14.066.484 liều; Mũi nhắc lại lần 1 là 47.037.284 liều; Mũi nhắc lại lần 2 là 6.846.906 liều.
+ Số liều tiêm cho trẻ từ 12-17 tuổi là 19.433.810 liều: Mũi 1 là 9.020.909 liều; Mũi 2 là 8.679.535 liều; Mũi nhắc lại lần 1 là 1.733.366 liều.
+ Số liều tiêm cho trẻ từ 5-11 tuổi là 10.222.352 liều: Mũi 1 là 7.023.539 liều; Mũi 2 là 3.198.813 liều.
SKĐS - Ca COVID-19 nhiều nước tăng mạnh, hai biến thể phụ BA.4, BA.5 của biến thể Omicron đã được ghi nhận trong nước; Bộ Y tế đã chỉ đạo tăng cường giám sát sự lưu hành của biến thể phụ BA.4, BA.5 và các biến thể khác để chủ động có các biện pháp xử lý kịp thời