Trung Quốc mở cửa trở lại sau 3 năm vì Covid-19 được đánh giá là sự kiện quan trọng với kinh tế thế giới. "GDP toàn cầu đã được dự báo tăng thêm 0,1 điểm % nhờ động thái này", kinh tế trưởng BIDV Cấn Văn Lực nói tại Diễn đàn về kịch bản kinh tế Việt Nam 2023 ngày 11/1. Việt Nam trên thực tế không nằm ngoài xu thế hưởng lợi. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, tác động tích cực từ việc Trung Quốc mở cửa sẽ không ngay lập tức diễn ra vì nước này có thể gặp một số "hỗn loạn" về chính sách trong giai đoạn đầu – tức trong quý quý I/2023.
Ông Nguyễn Xuân Thành đến từ Đại học Fulbright dự báo: "Khoảng tháng 4-5, Trung Quốc sẽ tự tin hơn vào chính sách mở cửa, tạo cơ hội ngành xuất khẩu và du lịch của Việt Nam".
Ông Nguyễn Xuân Thành tại Diễn đàn Kịch bản kinh tế Việt Nam ngày 11/1.
Trong khi đó, ông Nguyễn Minh Cường, kinh tế trưởng của ADB cũng cho rằng, phải đến hết quý II/2023, việc mở cửa của Trung Quốc mới tác động đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam ở các lĩnh vực như nông nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, khi Trung Quốc quay lại, Việt Nam cũng đối diện với thách thức phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước này.
Trước đó, trong báo cáo của Quỹ đầu tư VinaCapital, ông Michael Kokalari, kinh tế trưởng, cho rằng Trung Quốc mở cửa trở lại ít tác động với kinh tế Việt Nam hơn các quốc gia khác trong khu vực ASEAN. Nguyên nhân là mức độ tiếp xúc của Việt Nam với thị trường nội địa Trung Quốc khá khiêm tốn. Tác động quan trọng lớn nhất, theo VinaCapital là lượng khách du lịch có khả năng quay lại bình thường trong nửa cuối 2023. Đây cũng là động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng thêm 2% trong năm sau.
Bên cạnh câu chuyện Trung Quốc, giữa năm cũng là thời điểm Việt Nam tìm được cơ hội trước chính sách điều hành tiền tệ của Mỹ. Ông Nguyễn Xuân Thành cho biết, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) có thể còn 3 lần tăng lãi suất, dự kiến vào tháng 2, 3 và 5 trong năm nay. Theo ông, đầu tháng 5 có khả năng là lần tăng cuối cùng, sau đó lãi suất sẽ duy trì ở mức đỉnh trên thị trường liên ngân hàng từ 5-5,25% cho đến cuối 2023.
"Cuối tháng 5 sẽ có dư địa cho Việt Nam nhờ vào việc không phải chạy đua lãi suất trong nước với USD, áp lực tỷ giá qua đi", ông nói và nhìn nhận đây là dư địa để đổi chiều chính sách, đảm bảo các cân đối vĩ mô.
Tuy nhiên, để nắm bắt được những cơ hội này, ông Thành cho rằng Việt Nam cần phải chủ động. Cụ thể, để có được bức tranh sáng, Việt Nam cần tăng tốc trong giải ngân vốn đầu tư công, vốn FDI.
Trong khi đó, chuyên gia của ADB cho rằng Việt Nam cần tiếp tục khắc phục một số vấn đề nội tại như sự thiếu liên kết giữa thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Điều này đã bộc lộ rõ khi tổng cầu tiêu dùng nội địa tăng nhưng chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI – phản ánh điều kiện kinh doanh ngành sản xuất) suy giảm 2 tháng liên tiếp. PMI Việt Nam trong tháng 11 và 12 hiện nằm dưới ngưỡng 50 điểm – cho thấy sự thu hẹp trong lĩnh vực sản xuất.
Trong khi đó, tại những nước như Ấn Độ, Philippines, khi nhu cầu trên thế giới giảm, PMI vẫn duy trì trên 50 điểm (tức mở rộng sản xuất) nhờ đảm bảo đực sự liên kết này.
"Sự mất cân đối trong cơ cấu nền kinh tế khi khu vực xuất khẩu phụ thuộc lớn vào khối FDI đã khiến tổng cầu xuất khẩu giảm, chỉ số PMI lập tức đi xuống", ông nói.
Với đầu tư công, ông Cường cho rằng cần xem xét lại tổng vốn giải ngân mục tiêu mà Việt Nam đưa ra có phù hợp không. Đầu tư công, dù được xem là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, cũng đồng thời là điểm nghẽn trong thời gian dài vì vấn đề chậm giải ngân.
Lấy ví dụ con số hơn 2 triệu tỷ đồng cho đầu tư công trung hạn 5 năm, tức trung bình 400.000 tỷ mỗi năm, ông nói, thực tế mỗi năm Việt Nam chỉ giải ngân được khoảng 60%. Điều này được phía ADB nhìn nhận, có thể bản chất câu chuyện không phải là giải ngân đầu tư công chậm, mà thực ra nền kinh tế chỉ có khả năng hấp thụ đến vậy. "Tổng vốn đầu tư công vượt mức hấp thụ, sẽ tạo sức ép đến việc huy động vốn từ trái phiếu Chính phủ và thanh khoản của hệ thống tài chính", ông Cường nói. Do đó, ông cho rằng, việc đưa ra tổng vốn đầu tư bao nhiêu phải nhìn đến năng lực của nền kinh tế (cơ chế, luật pháp, chính sách...).
Bên cạnh đó, chuyên gia ADB cũng lưu ý thêm và câu chuyện niềm tin trên thị trường. Cụ thể, để ngăn chặn khủng hoảng về niềm tin, một mình chính sách tiền tệ là không đủ mà cần có sự chia sẻ nhiều hơn từ chính sách tài khoá.
Đức Minh