Thuế quan là trăn trở của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động. Ông Đỗ Trí Tuấn, Phó tổng giám đốc Đại Dũng, kể "mất ăn, mất ngủ" trong giai đoạn đầu nghe tin thuế đối ứng từ Mỹ.
"Chúng tôi tra đủ loại tài liệu xem mã thuế HS bao nhiêu, áp khi nào", ông Tuấn nói tại phiên đối thoại "Mài sắc các mũi nhọn chiến lược để vươn tầm quốc tế", trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025, chiều 15/9.
Đại Dũng được thành lập hơn 30 năm, chuyên sản xuất và thi công kết cấu thép, với thị trường xuất khẩu chiếm hơn một nửa, gồm Nhật, Australia, Mỹ...
Để ứng phó biến động thuế Mỹ, ông Tuấn cho hay doanh nghiệp xoay xở, tối đa hóa nguyên vật liệu từ Việt Nam và giảm phụ thuộc vào nguồn hàng Trung Quốc. Ông Tuấn cho biết tính đến nay, doanh thu từ thị trường Mỹ của họ đã đi lên gần gấp đôi, dự kiến tiếp tục tăng trưởng vài chục phần trăm trong năm tới.

Ông Đỗ Trí Tuấn, Phó tổng giám đốc Đại Dũng, tại sự kiện. Ảnh: VYEA
Ngoài xoay chuyển để gia tăng nội lực, biến động thuế quan lần này cũng là dịp để các doanh nghiệp Việt như Nafoods cơ cấu lại phân bổ thị trường xuất khẩu.
Theo Chủ tịch Nafoods Nguyễn Mạnh Hùng, thuế này ảnh hưởng nặng nề tới xuất khẩu B2B (bán qua doanh nghiệp đối tác, nghĩa là bán buôn), do đó kênh B2C (tới người dùng cuối) hoặc qua hệ thống siêu thị có thể là hướng đi phù hợp hơn.
Đến nay, họ giảm tỷ trọng thị trường Mỹ từ 32% xuống còn 20%. "Thuế quan cũng là thời cơ để doanh nghiệp Việt làm quen và ứng phó", ông Hùng nói.
Cơ cấu lại thị trường nguyên liệu đầu vào, giảm phụ thuộc vào quốc gia thứ ba cũng là cách đi của các doanh nghiệp xuất khẩu. Ở điểm này, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Công ty Economica Việt Nam, dẫn ví dụ ngành điện thoại và linh kiện, tới 89% giá trị linh kiện đầu vào phải nhập khẩu. Dệt may cũng chỉ đạt tỷ lệ nội địa hóa 45-50%, đồng nghĩa hơn một nửa nguyên phụ liệu, đặc biệt là vải và sợi, nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc và các quốc gia khác.
Theo ông Mai Hữu Tín, Tổng giám đốc Tập đoàn U&I, doanh nghiệp Việt cần tham gia "cuộc chơi" cung ứng nguồn nguyên liệu, nhằm tăng tỷ lệ nội địa hàng Việt. "Muốn bước vào một cuộc chơi sòng phẳng, doanh nghiệp Việt phải tự túc trong sản xuất, nâng cao chất lượng và giảm tỷ lệ nhập khẩu từ Trung Quốc", ông Tín nói.
Trong khi đó, Giám đốc Economica Việt Nam lưu ý về tính mất cân đối trong cơ cấu xuất khẩu. Trong giai đoạn 2018-2024, khu vực doanh nghiệp FDI luôn chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Riêng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này (kể cả dầu thô) ước đạt hơn 290 tỷ USD, chiếm 71,7% tổng giá trị xuất khẩu cả nước.
"Sự áp đảo của khu vực FDI giúp duy trì tốc độ tăng trưởng, thặng dư thương mại, nhưng cũng đặt ra thách thức về tính bền vững, khả năng lan tỏa công nghệ, và mức độ tham gia của doanh nghiệp Việt vào chuỗi giá trị toàn cầu", TS Bình nói.
Cùng quan điểm, ông Phạm Quang Vinh, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ giai đoạn 2014-2018, khuyến nghị cơ quan chức năng nhìn nhận lại cách tạo hệ sinh thái trong khu vực FDI, cũng như sự bình đẳng khu vực này với doanh nghiệp Việt.
Ông Vinh cũng cho rằng Nhà nước cần tham gia hỗ trợ chính sách trong việc hình thành chuỗi cung ứng và hệ giá trị của doanh nghiệp Việt. Ví dụ, các chính sách ưu đãi cho nhóm "doanh nghiệp dân tộc" sẽ giúp hình thành các mũi nhọn kinh tế.
Thủy Trương