Tại Nghị định 100 ngày 8/5 về cơ chế phát triển các dự án nhiệt điện khí, Chính phủ quy định các dự án nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu được bao tiêu sản phẩm, tức cam kết sản lượng huy động điện.
Tỷ lệ này dựa trên thoả thuận của bên bán (nhà máy điện khí LNG) và mua điện (Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN) nhưng không thấp hơn 65% sản lượng điện phát bình quân nhiều năm của dự án. Việc bao tiêu được áp dụng trong thời hạn trả nợ gốc và lãi vay, nhưng không quá 10 năm từ ngày phát điện. Sau thời gian này, việc mua bán do các bên đàm phán.
Cơ chế trên sẽ áp dụng cho các dự án điện khí LNG nhập khẩu bắt đầu vận hành trước ngày 1/1/2031.

Kho cảng trung tâm LNG Thị Vải. Ảnh: PVN
Tỷ lệ cam kết về bao tiêu sản lượng nhằm đảm bảo dòng tiền ổn định để chủ đầu tư trả nợ vay dự án. Các bên cung ứng và vận chuyển khí cũng thường yêu cầu tỷ lệ này để tính toán ổn định về lượng và giá nhiên liệu trong dài hạn.
Thực tế, tỷ lệ bao tiêu 65% bằng với mức được EVN đề xuất trước đó nhưng vẫn thấp hơn so với mong muốn của nhiều nhà đầu tư điện khí LNG. Tại một báo cáo vào tháng 4/2024, EVN cho biết các chủ đầu tư các dự án năng lượng này luôn đề nghị thống nhất tỷ lệ này ở mức 72-90% trong toàn bộ thời hạn hợp đồng.
Tuy nhiên, tỷ lệ bao tiêu cao như các nhà đầu tư đưa ra có thể sẽ gây rủi ro tăng giá điện. Bởi, LNG có giá thành cao dẫn tới giá thành phát điện của nhà máy điện khí sử dụng nhiên liệu LNG nhập khẩu cao hơn nhiều các nguồn khác. EVN cũng lo ngại chi phí mua điện đầu vào của tập đoàn sẽ bị ảnh hưởng lớn, tác động mạnh đến giá bán lẻ đầu ra khi các nguồn LNG đi vào vận hành.
Cùng với đó, tập đoàn này cho rằng các cam kết cũng không công bằng với các loại hình nhà máy điện khác. Các nhà máy này hiện đều không có cam kết dài hạn mà thực hiện hàng năm theo cân đối cung cầu thực tế. Thậm chí, theo định hướng, tỷ lệ này sẽ phải giảm dần nhằm tăng cạnh tranh qua thị trường giao ngay.
Cũng theo Nghị định 100, các dự án nhiệt điện khí sử dụng khí thiên nhiên trong nước sẽ được vận hành, huy động ở mức tối đa theo khả năng cấp khí.
Điều kiện là các dự án này phải đáp ứng các yêu cầu ràng buộc về nhiên liệu, công suất và sản lượng của dự án, nhu cầu và ràng buộc kỹ thuật của hệ thống điện quốc gia. Các dự án này cũng phải vận hành phát điện trước ngày 1/1/2036. Thời gian áp dụng cho đến khi họ không còn sử dụng khí thiên nhiên khai thác trong nước.
Theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII đến năm 2030, nguồn điện khí phải đầu tư mới tối đa gần 37.500 MW, trong đó 60% là khí hoá lỏng LNG (22.524 MW). Mức này tăng khoảng 7.000 MW so với trước điều chỉnh quy hoạch.
Phương Dung