Hàng hóa đang được tiêu thụ trên thị trường qua ba kênh là siêu thị, chợ truyền thống và các cửa hàng nhỏ lẻ. Tại tọa đàm về an toàn thực phẩm ngày 23/9, ông Nguyễn Văn Mười - Phó tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng nhà điều hành cần quản lý chặt hoạt động bán lẻ.
Theo ông, chợ và hệ thống siêu thị có thể quản lý, trong khi các cửa hàng nhỏ lẻ khó kiểm soát hơn. Vì vậy, ông đề xuất cơ quan quản lý phát triển các điểm bán tập trung, đồng thời hạn chế các điểm bán hàng rải rác, tràn lan trên vỉa hè, lề đường (chợ cóc). Việc này giúp dễ quản lý, giảm rủi ro cho người tiêu dùng.

Ông Nguyễn Văn Mười - Phó tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam phát biểu tại tọa đàm, ngày 23/9. Ảnh: Báo Tiền Phong
Theo số liệu của Bộ Công Thương đến cuối 2024, cả nước có 8.274 chợ, 276 trung tâm thương mại và 1.293 siêu thị. Ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn, Phó cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) đánh giá các siêu thị, trung tâm thương mại thường thuộc doanh nghiệp lớn, chú trọng uy tín thương hiệu nên họ tuân thủ tốt các quy định về an toàn thực phẩm. Trong khi đó, các cơ sở kinh doanh ở chợ chủ yếu nhỏ lẻ, họ chỉ ký cam kết với cơ quan chức năng và thường thiếu giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm.
"Hiện việc truy xuất nguồn gốc tại chợ gặp khó khăn, hiểu biết về an toàn thực phẩm của hộ kinh doanh còn hạn chế", ông Tuấn nói.
Theo ông, Bộ Công Thương đã ban hành Tiêu chuẩn quốc gia về chợ kinh doanh thực phẩm, khuyến khích địa phương áp dụng. Tuy nhiên, hạ tầng lạc hậu và quản lý phân tán khiến việc kiểm soát an toàn thực phẩm ở các địa điểm này chưa hiệu quả.
Ở khía cạnh này, ông Nguyễn Quý Dương, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng muốn kiểm soát thực phẩm an toàn phải bắt đầu từ gốc - khâu sản xuất.
Việt Nam có khoảng 10 triệu hộ nông dân, canh tác 1,15 triệu ha rau và 1,3 triệu ha cây ăn quả. Hai hệ thống chứng nhận chủ yếu đang được sử dụng là VietGAP và GlobalGAP, đều mang tính khuyến khích tự nguyện, nhằm thúc đẩy sản xuất an toàn, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và gìn giữ môi trường sinh thái.
Theo ông Dương, nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu các sản phẩm nông sản an toàn rất lớn, nhưng diện tích sản xuất đạt chuẩn còn thấp. Cụ thể tính tới cuối 2024, cả nước có khoảng 150.000 ha đạt chứng nhận VietGAP cho 6 nhóm cây trồng, trong đó diện tích rau an toàn là hơn 8.000 ha (chưa đến 1%). Với cây ăn quả, diện tích đạt chuẩn khoảng 76.000 ha; chè 5.200 ha. Nếu tính cả các chứng nhận khác như GlobalGAP, tổng diện tích sản xuất đạt chuẩn mới đạt khoảng 440.000 ha.
Thực tế, từ 2012 đến nay, nhiều chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng theo chuẩn VietGap và các tiêu chuẩn an toàn tương tự được ban hành, song sau hơn một thập kỷ, diện tích sản xuất thực tế đạt chứng nhận an toàn còn quá ít. Ngoài VietGAP, nông dân cũng có thể ký cam kết sản xuất an toàn trực tiếp với bên tiêu thụ, nhưng quy mô nhỏ lẻ và phân tán, chưa đủ tạo sức lan tỏa.
"Thực trạng này khiến người sản xuất khó nâng giá trị nông sản, còn người tiêu dùng trong nước chịu thiệt thòi", ông nói.
Cùng quan điểm, Nguyễn Văn Mười cho rằng các cơ sở sản xuất cần đáp ứng tiêu chuẩn trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. "Một nông dân mỗi năm có thể cung cấp hàng chục, thậm chí hàng trăm tấn rau, nhưng hiện vẫn chưa có biện pháp quản lý an toàn tương xứng. Đây chính là lỗ hổng quản lý cần được chú trọng siết chặt", ông nói thêm.
Ở góc độ quản lý, ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn đề nghị cần thống nhất một đầu mối quản lý an toàn thực phẩm. Cùng với đó, cơ quan quản lý cần ưu tiên bố trí ngân sách cải tạo chợ, xã hội hóa đầu tư hạ tầng và tăng kiểm soát nguồn hàng, đặc biệt là thực phẩm tươi sống.
Phương Dung