Theo đó, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành có các hình thức chia thừa kế, cụ thể như sau:

Đầu tiên là chia thừa kế theo di chúc: Thừa kế theo di chúc được quy định tại Chương XXII của Bộ luật Dân sự 2015 (từ Điều 624 đến Điều 648), với các quy định cụ thể về các hình thức di chúc như: di chúc miệng, di chúc bằng văn bản, di chúc có người làm chứng hoặc không có người làm chứng. Quyền định đoạt tài sản thông qua di chúc là một quyền cơ bản của người có tài sản và được pháp luật bảo vệ.

thua-ke-theo-phap-luat-17364987694641536703634.jpg

(Ảnh minh hoạ)

Thừa kế theo di chúc là hình thức thừa kế được ưu tiên cao nhất. Chỉ trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc bị vô hiệu toàn bộ hay một phần thì mới chuyển sang xem xét việc định đoạt tài sản theo các hình thức khác, như thừa kế theo pháp luật.

Ví dụ minh họa: Ông A qua đời và để lại di chúc chia toàn bộ di sản cho con trai cả. Ý nguyện của ông A được thể hiện rõ qua di chúc và pháp luật sẽ tôn trọng, bảo vệ quyền định đoạt tài sản của ông theo nội dung di chúc đó.

Thứ hai là thừa kế theo pháp luật: Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015, thừa kế theo pháp luật được định nghĩa là "thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định"

Nói cách khác, thừa kế theo pháp luật là quá trình chuyển giao tài sản của người đã mất cho những người còn sống dựa trên các hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế được quy định rõ ràng trong luật pháp.

Hình thức thừa kế này được áp dụng khi người đã khuất không để lại di chúc hoặc khi di chúc vi phạm các quy định cấm của pháp luật.

Thứ ba là thừa kế thế vị: Bên cạnh hai cách thừa kế đã nêu, pháp luật của chúng ta cũng đưa ra quy định cho tình huống nếu người được thừa kế lại qua đời trước người cho thừa kế (con cái mất trước bố mẹ) thì con cái của người được thừa kế sẽ thừa hưởng phần tài sản mà bố mẹ họ sẽ nhận nếu còn sống.

Tình huống này được gọi là thừa kế thay thế. Hơn nữa, theo pháp luật, nếu cha mẹ mất cùng lúc với ông bà, thì con cháu sẽ tiếp quản vị trí của cha mẹ để nhận phần tài sản từ ông bà, theo Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015.

Do đó, việc thừa kế thay thế là quá trình mà con cái chiếm lấy vị trí của cha mẹ (hoặc ông bà) để nhận phần di sản từ ông bà khi cha mẹ (hoặc ông bà) mất trước hoặc cùng lúc với tổ tiên.

Những người thừa kế thay thế sẽ nhận phần tài sản mà cha mẹ (hoặc ông bà) sẽ thừa hưởng nếu họ còn sống, và sẽ chia sẻ tài sản với các bên thừa kế khác. Để được coi là thừa kế thay thế, cháu hoặc cháu nội cần phải còn sống vào thời điểm ông bà hoặc tổ tiên qua đời.

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022