Sáng 25/10, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Căn cước.
Theo điều 10, quy định về thông tin về công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư gồm:
1. Họ, chữ đệm và tên khai sinh. | 13. Tình trạng khai báo tạm vắng |
2. Số định danh cá nhân. | 14. Nơi ở hiện tại |
3. Ngày, tháng, năm sinh. | 15. Quan hệ với chủ hộ |
4. Giới tính. | 16. Nhóm máu |
5. Nơi đăng ký khai sinh | 17. Số chứng minh nhân dân/Căn cước công dân, ngày cấp, nơi cấp, thời hạn có giá trị sử dụng |
6. Quê quán | 18. Họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân, quốc tịch của cha, mẹ, vợ, chồng hoặc người đại diện hợp pháp |
7. Dân tộc | 19. Họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân của chủ hộ và các thành viên hộ gia đình |
8. Tôn giáo | 20. Ngày, tháng, năm chết hoặc mất tích |
9. Quốc tịch (Việt Nam) | 21. Họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân của người giám hộ, người được giám hộ |
10. Tình trạng hôn nhân | 22. Thông tin về diện chính sách (lao động - thương binh, xã hội; giáo dục – đào tạo; y tế; bảo hiểm) |
11. Nơi thường trú | 23. Thông tin khác được chia sẻ từ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành. |
12. Nơi tạm trú |
Liên quan đến dự thảo Luật Căn cước, báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Căn cước, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với đa số ý kiến tán thành tên gọi Luật Căn cước và tên Thẻ căn cước.
Luật Căn cước công dân được kiến nghị đổi tên thành Luật Căn cước. Ảnh TL
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc sử dụng tên gọi Luật Căn cước bao quát được phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của luật, gồm cả công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch.
Tên gọi này cũng phù hợp với bản chất và mục tiêu quản lý căn cước của Nhà nước; phù hợp với phương thức quản lý trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, xây dựng Chính phủ số, xã hội số. Đồng thời, việc sử dụng tên gọi Thẻ căn cước, theo giải trình, là phù hợp và sẽ bao hàm được đầy đủ thông tin về căn cước của công dân. Việc đổi tên Thẻ căn cước như dự thảo luật Chính phủ trình không làm phát sinh thủ tục, chi phí đổi thẻ với người dân.
Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá việc mở rộng, tích hợp nhiều thông tin vào Thẻ căn cước vừa nhằm hướng tới mục tiêu quản lý Nhà nước toàn diện, đầy đủ hơn, vừa tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng thông tin cá nhân.
Về nội dung thể hiện trên Thẻ căn cước, đại biểu Quốc hội cho rằng chỉ nên thể hiện những thông tin mang tính chất ổn định, không trùng lắp; cân nhắc một số thông tin chưa phù hợp; đề nghị không nên sử dụng QR code, chỉ nên dùng chip điện tử trên Thẻ căn cước.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các thông tin thể hiện trên Thẻ căn cước đã được đánh giá cụ thể, bảo đảm không trùng lặp, thống nhất giữa các loại giấy tờ tùy thân phổ biến hiện nay của công dân.
Dự thảo luật bỏ vân tay trên bề mặt thẻ (được lưu trữ trong bộ phận lưu trữ) để bảo đảm tính bảo mật trong quá trình sử dụng thẻ; bỏ thông tin "quê quán", sửa đổi "số thẻ căn cước công dân" thành "số định danh cá nhân", "căn cước công dân" thành "thẻ căn cước", "nơi thường trú" thành "nơi cư trú", bổ sung "nơi đăng ký khai sinh"... để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc này nhằm bảo đảm tính chính xác về các thông tin của người dân trong xác thực, hạn chế việc phải cấp đổi Thẻ căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân.