Năm 1960, nhà thơ Chế Lan Viên viết bài thơ về dáng hình Tổ quốc qua dáng hình của anh Ba - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xuống tàu tìm đường cứu nước.
Nhà thơ cảm thấy đau khổ vì nhớ lại lúc bấy giờ "Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con", là dân mất nước nhưng chưa thấu hiểu nỗi đau vô cùng ấy. Tự trách mình, trách một bộ phận khá đông trong thế hệ mình về sự chưa biết này, Chế Lan Viên đã viết:
"Hiểu sao hết "Người đi tìm hình của Nước" Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người Một góc quê hương nửa đời quen thuộc Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai Thế đi đứng của toàn dân tộc Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người Còn nhà thơ Xuân Diệu, ông cũng viết bài thơ về dáng hình Tổ quốc qua dáng hình mũi thuyền là mũi Cà Mau, với hình ảnh đất nước vừa cụ thể vừa tượng trưng, khiến chúng ta hình dung ra ngay Tổ quốc mình. Bài thơ Mũi Cà Mau được viết năm 1962, như tiếp nối bài thơ Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên viết năm 1960:
"Tổ quốc tôi như một con tàu, Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau Những dòng sông rộng hơn ngàn thước. Trùng điệp một màu xanh lá đước. Đước thân cao vút, rễ ngang mình Trổ xuống nghìn tay, ôm đất nước!
Tổ quốc tôi như một con tàu Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau"
Hai nhà thơ lớn của Việt Nam đã có hai bài thơ để đời như vậy khi họ vẽ nên dáng hình Tổ quốc. Như hai họa sĩ với hai bức tranh, bức sơn mài của Chế Lan Viên, bức sơn dầu của Xuân Diệu, chất liệu làm nên bức tranh có khác nhau, nhưng ý nghĩa thẳm sâu của hai bức tranh thì đâu có khác.
Đêm thơ “Những câu thơ viết nên hình đất nước” tôn vinh di sản thơ ca kháng chiến do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp tổ chức nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Những thế hệ nhà thơ lớp sau vẫn tiếp tục có những bài thơ thể hiện dáng hình Tổ quốc. Thơ họ mới mẻ hơn, nhưng Tổ quốc trong thơ họ vẫn là Tổ quốc ta, đầy yêu thương và kiêu hãnh.
Một trong những nhà thơ điển hình của thế hệ thơ chống Mỹ là nhà thơ Lê Anh Xuân, khi anh viết bài thơ bất tử Dáng đứng Việt Nam, anh đã bảo chứng bằng máu mình cho bài thơ ấy. Bài thơ Dáng đứng Việt Nam của nhà thơ Lê Anh Xuân đã ca ngợi hùng khí của anh giải phóng quân khi đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968.
Bài thơ ấy đã truyền cảm hứng anh hùng cho rất nhiều thế hệ, nên nhiều bạn trẻ hôm nay muốn biết nguyên mẫu anh Bộ đội Cụ Hồ trong bài thơ của Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) là ai?
Thì đây, cựu chiến binh Vũ Chí Thành, nguyên Trung đội phó Trung đội đại liên - Tiểu đoàn 16, tiết lộ: "Nguyên mẫu của người chiến sĩ trong bài thơ này là anh Nguyễn Công Mẹo, nguyên quán ở thôn Đồng Vinh 1, xã Đồng Tiến, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa và một chiến sĩ nữa mà anh em chứng kiến không biết tên".
Từ nguyên mẫu người chiến sĩ Nguyễn Công Mẹo, khi hy sinh rồi vẫn đứng thẳng khiến quân thù khiếp sợ, nhà thơ Lê Anh Xuân đã viết nên bài thơ lẫm liệt này:
"Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công".
Bài thơ Dáng đứng Việt Namcủa Lê Anh Xuân cũng bất tử cùng với anh Nguyễn Công Mẹo - nguyên mẫu của bài thơ, người lính khi đã hy sinh đã thành một tượng đài vì cái "dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ" ấy. Bài thơ bi hùng của Lê Anh Xuân khiến người Việt Nam tự hào vì những người lính có tên tuổi hẳn hoi nhưng họ đã "khuất danh" để làm nên một Việt Nam lừng danh trên thế giới bởi lòng dũng cảm, đức hy sinh, và lý tưởng vì Độc lập, Tự do của Tổ quốc.
Và không chỉ viết bài thơ D áng đứng Việt Nam, trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968 ấy, nhà thơ Lê Anh Xuân đã hy sinh như một người lính. Anh nằm lại ở mảnh đất Long An, chỉ cách Sài Gòn 20 cây số. Năm ấy, nhà thơ Lê Anh Xuân, đúng như tên anh, đang còn tuổi thanh xuân.
Và đây, một dáng hình Tổ quốc nữa được vẽ lên bởi một nhà thơ nguyên là lính chống Mỹ, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến - một người bạn và một người em thân thiết của tôi. Bài thơ Tổ quốc nhìn từ biểncủa Nguyễn Việt Chiến được anh viết tháng 4 năm 2009:
"Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa Ngàn năm trước con theo cha xuống biển Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc Các con nằm thao thức phía Trường Sơn Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa Trong hồn người có ngọn sóng nào không? Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo Lạc Long cha nay chưa thấy trở về Lời cha dặn phải giữ từng thước đất Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ Thương Hòn Mê bão tố phía âm u Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích Những đau thương trận mạc đã qua rồi Bao dáng núi còn mang hình goá phụ Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm hoạ Đã mười lần giặc đến tự Biển Đông Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả Những chàng trai ra đảo đã quên mình Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi".
Tôi phải trích nguyên bài thơ rất hay này để thấy, thế hệ những nhà thơ chống Mỹ đã phát huy đến tối đa lòng yêu nước, đã để lịch sử oai hùng của dân tộc thấm sâu vào máu mình như thế nào. Chúng ta hãy yêu mến và tin tưởng họ.
Còn bản thân tôi, ngày chiến tranh, vào năm 1972, trước khi xuống chiến trường Mỹ Tho, tôi viết được bài thơ Thử nói về hạnh phúc. Trong bài thơ ấy có đoạn:
"Với những thằng con trai mười tám tuổi
Đất nước là nhịp tim có thể khác thường
Là một làn mây mỏng đến bâng khuâng
Là mùi mồ hôi thật thà của lính
Đôi khi là một giọng nữ cao nghe từ Hà Nội
Hay một bữa cơm rau rừng
Chúng tôi không muốn chết vì hư danh
Không thể chết vì tiền bạc
Chúng tôi lạ xa với những tin tưởng điên cuồng
Những liều thân vô ích
Đất nước đẹp mênh mang
Đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt
Chỉ riêng cho Người, chúng tôi dám chết!"
Rồi sau khi ở chiến trường Nam lộ Bốn trở về chiến khu, đóng bên thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông, năm 1973, tôi lại viết được bài thơ Một người lính nói về thế hệ mình. Trong bài thơ, có một đoạn khá cảm động mà tôi viết về đất nước khi lội nước qua Đồng Tháp Mười:
"Nhủ điều chi ơi tiếng quốc đêm sương
Kêu da diết suốt một mùa nước nổi
Bông điên điển mở cánh vàng nóng hổi
Là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay
Đất nước ngấm vào ta, đơn sơ
Như Tháp Mười không điểm trang đầy im lặng
Trên tất cả tình yêu tình yêu này đi thẳng
Đến mỗi đời ta bất chấp những ngôn từ"
Sau hòa bình, suốt năm 1976, tôi đã viết và hoàn thành trường ca đầu tiên của mình, trường ca Những người đi tới biển. Dáng hình đất nước luôn hiện về trong trường ca này, chỉ xin trích một đoạn ngắn:
"Chính mẹ đẻ anh hùng và truyền thuyết
Từ túp lều lợp lá lợp tranh
Cắt cuống nhau bằng lưỡi liềm
Bàn chân thô quanh năm bùn lấm
Chưa một lần ướm qua sử sách
Tập con bước vịn vào ca dao tục ngữ
Dù uống nước đâu lòng vẫn nhớ nguồn
Thương từ cái kiến con ong
Tím ruột bầm gan thù bọn ác
Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Là đứng theo dáng mẹ
"đòn gánh tre chín dạn hai vai" (*)
Mùa hạ gió lào quăng quật
Mùa đông sắt se gió bấc
Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Mồ hôi vã một trời sao trên đất
Trời sao lặn hóa thành muôn mạch nước
Chảy âm thầm chảy dọc thời gian".

Tác giả bài viết - nhà thơ Thanh Thảo (bên trái) và nhà văn Lưu Kiểng Xuân, rừng Tây Ninh, sát nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Ảnh chụp tháng 4 năm 1974
Trong suốt cuộc đời làm thơ của tôi chỉ duy nhất có một bài thơ mang tênTổ quốc.Bài thơ này tôi viết tháng 2 năm 1979. Ai cũng biết cái tháng cái năm đã đi vào lịch sử ấy:
Tổ quốc
Vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục tác
Con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu
Bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm
Mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới
Trầm tĩnh như rừng kia như biển kia
Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc
Những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp
Lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù
Ải Nam Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay về
Mười năm nằm gai nếm mật
Hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy
Pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao
Quân di chuyển những dòng sông chảy ngược
Mây uy nghi Yên Tử thuở nào
Còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
Tính nước cờ ung dung trên cao
Quân di chuyển những dòng sông chảy ngược
Mây uy nghi Yên Tử thuở nào
Còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
Tính nước cờ ung dung trên cao
Những câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừa
Chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm
Vó ngựa gõ giòn lâng lâng sương khuya
Khẩu súng chống tăng ghì chặt vào vai
Anh xạ thủ H'Mông mười tám tuổi
Khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới
Một chấm nhỏ trên bản đồ, một chấm nhỏ thiêng liêng
Phút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đất
Phút ấy, đất dưới chân anh là Tổ quốc
Quả đạn rời nòng trong chớp mắt
Xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa
Anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt
Gương mặt dịu lành như Tổ quốc chúng ta
Tổ quốc có khi chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ, nhưng là một chấm nhỏ thiêng liêng. Còn rất nhiều khi, Tổ quốc là gương mặt dịu lành của người lính trẻ, anh bắn cháy xe tăng giặc, quệt tay áo lau mồ hôi, và khi đó, gương mặt anh chính là Tổ quốc chúng ta, Tổ quốc Việt Nam dịu lành nhưng không một kẻ thù nào quật ngã được.