Loại rau được nhắc tới ở trên chính là bèo tây. Bèo tây Việt Nam đang chiếm lĩnh thị trường toàn cầu nhờ những ứng dụng bất ngờ trong đời sống và y học.
Từ cây dại mọc hoang đến mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Bèo tây (còn gọi là lục bình, lộc bình hay bèo Nhật Bản) là loài thực vật thủy sinh thân thảo, nổi trôi theo dòng nước, thuộc chi Eichhornia, họ Pontederiaceae. Loại cây này sinh trưởng nhanh, từng phổ biến ở các vùng quê Việt Nam như một nguồn thức ăn rẻ tiền cho gia súc, gia cầm.
Tuy nhiên, trong xu hướng sống xanh và tái sử dụng nguyên liệu tự nhiên, bèo tây đã “đổi đời”.
Tôi đã uống nước tía tô pha chanh trong 1 tháng và hoàn toàn bất ngờ với những thay đổi của cơ thể
Theo dữ liệu từ Volza (giai đoạn 2023–2024), Việt Nam hiện là quốc gia xuất khẩu sản phẩm từ bèo tây nhiều nhất thế giới, chiếm khoảng 65% thị phần toàn cầu với hơn 18.600 chuyến hàng. Các thị trường tiêu thụ mạnh gồm Đức, Đan Mạch, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc đại lục.
Từ thân cây bèo tây khô đã xử lý mối mọt, nghệ nhân có thể đan thành giỏ, khay, ghế salon, đèn chao, kệ báo, thảm, hộp, làn, chậu hoa… với mẫu mã đa dạng, màu sắc hài hòa, đáp ứng cả thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.
Rau mọc hoang nhưng lại quý với sức khỏe
Ngoài việc sử dụng làm đồ thủ công mỹ nghệ, bèo tây còn có thể dùng làm rau ăn, thuốc chữa bệnh.
Bèo tây là món ăn và bài thuốc được ứng dụng tại nhiều nơi của châu Á. Tại Đài Loan (Trung Quốc), loại rau này được xem là nguồn thực phẩm giàu caroten. Ở Indonesia, phần thân và cụm hoa được chế biến thành nhiều món ăn. Tại Việt Nam, bèo tây xuất hiện trong bữa cơm gia đình như ngó bèo xào (tương tự ngó sen); đọt non, cuống lá nấu canh tép, cá lóc, tôm khô; hoa luộc chấm cá kho, xào thịt heo, lòng heo; lẩu cá rô phi bèo tây...
Theo BSCKII Huỳnh Tấn Vũ (Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, cơ sở 3), loại rau này sở hữu giá trị sinh học đáng kinh ngạc. Trong bèo tây chứa các hợp chất như alkaloid, phthalate, propanoid và phenyl, có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm; chống oxy hóa; hỗ trợ điều trị ung thư.
Các nghiên cứu cho thấy chiết xuất thô từ bèo tây có thể ức chế vi khuẩn Gram dương và Gram âm với hiệu quả tương đương khoảng 50% so với kháng sinh tetracycline, tùy thuộc vào từng chủng vi khuẩn.
Ngoài ra, sự kết hợp các chất kháng khuẩn trong dịch chiết bèo tây còn có khả năng hoạt động đối kháng hoặc hiệp đồng, nâng cao hiệu quả tiêu diệt vi khuẩn.

Bèo tây om lươn (ảnh minh hoạ).
Bác sĩ Vũ cho hay trong y học cổ truyền, cây bèo tây sau khi bỏ thân và rễ, lấy lá và phần phình của cuống lá để dùng làm thuốc. Một số bài thuốc dân gian phổ biến gồm:
- Trị mụn nhọt, vết sưng đau: Giã nát bèo tây với muối trắng, đắp lên chỗ đau, thay 2–3 lần/ngày giúp vết tấy rút nhanh, giảm sưng.
- Chữa áp xe, sưng viêm: Bèo tây giã nhuyễn với muối (100g bèo + 5–8g muối), đắp lên vùng sưng viêm như bẹn, nách, tinh hoàn, khớp... để giảm đau, tiêu viêm. Nên đắp qua đêm, thường sau 1–2 lần là cải thiện rõ rệt.
Lưu ý khi sử dụng bèo tây
Dù có nhiều lợi ích, bác sĩ Vũ cảnh báo người dân cần thận trọng khi sử dụng bèo tây làm thực phẩm. Loài cây này có khả năng hấp thụ kim loại nặng và các chất độc trong nước, do đó không nên thu hái tại các nguồn nước ô nhiễm.
“Chỉ nên ăn bèo tây mọc ở nơi có nguồn nước sạch, chọn những đọt non, và không nên dùng thường xuyên vì nguy cơ tích tụ kim loại nặng cao hơn nhiều loại rau thông thường”, bác sĩ Vũ nhấn mạnh.