Đầu tháng 8, đến cổ vũ con trai học lớp 11 thi đấu bóng đá, chị Ngọc 44 tuổi ở Hà Nội bất ngờ về chiều cao của bọn trẻ. 11 thành viên trong đội của lớp đều cao từ 1,7 đến 1,8 m, riêng con trai chị cao 1,75 m. Đứng cổ vũ các con, nhiều phụ huynh như chị chỉ đứng đến vai bọn trẻ, kể cả so với học sinh nữ ở lớp.

Chị Ngọc cao 1,52 m còn chồng 1,6 m, là mức thấp so với chiều cao trung bình của người Việt hiện nay. Còn chiều cao của con trai chị cũng như nhiều đứa trẻ cùng lứa khác đã vượt trội so bố mẹ chúng. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm vóc của người Việt trong hàng chục năm qua.

"Không phải bố mẹ lùn là con lùn, con trai tôi được gia đình chú trọng phát triển chiều cao từ nhỏ bằng can thiệp dinh dưỡng và vận động", chị Ngọc nói, thêm rằng không chỉ gia đình chị mà hầu hết gia đình hiện nay đều quan tâm đến việc phát triển chiều cao cho con. Chính điều này giúp giới trẻ có tầm vóc vượt trội so với thế hệ trước.

Thực tế, yếu tố đầu tiên quyết định chiều cao của trẻ là di truyền, chiếm khoảng 23%. Các yếu tố dinh dưỡng, môi trường sống, vận động quyết định 77% chiều cao của trẻ. Giới trẻ ngày nay được hưởng thành quả của ý thức can thiệp dinh dưỡng, tạo môi trường sống từ xã hội đến gia đình. Khi tầm vóc giới trẻ ngày càng phát triển sẽ nâng chiều cao trung bình của người Việt tăng theo, "thoát lùn" so với các nước Đông Nam Á.

GS.TS Lê Danh Tuyên, nguyên Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia, cho hay khi đề cập chiều cao người dân một nước, các nhà khoa học luôn dựa vào chiều cao đạt được của thanh niên lấy từ kết quả các cuộc Tổng điều tra dinh dưỡng. Con số này phản ánh quá trình tăng trưởng chiều cao theo thời gian.

Số liệu còn lưu giữ được của Modière (năm 1875), Bigot và Huard (năm 1938) so với số liệu năm 1975 thì chiều cao nam và nữ thanh niên Việt Nam không thay đổi trong cả 100 năm giai đoạn này, với nam cao 1,6 m và nữ 1,51 m. Trong khi đó, theo quy luật được các nhà khoa học rút ra thì cứ sau 10 năm, chiều cao cả năm và nữ tăng từ 1,5 đến 2 cm trong điều kiện không có chiến tranh và không bị khủng khoảng kinh tế kéo dài.

"Rõ ràng với 100 năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã chịu hậu quả về sức khỏe người dân nói chung và đặc biệt là về tăng trưởng chiều cao", GS Tuyên nói.

Cuộc Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc lần đầu tiên năm 1985 cho thấy chiều cao cả nam và nữ chưa có biến đổi so với 10 năm trước. Nhưng đến năm 2010, chiều cao đã tăng lên với 164,4 cm ở nam và 153,4 cm ở nữ. Riêng khoảng 10 năm từ 2010 đến 2020, mức tăng chiều cao 3,7 cm với nam và 2,8 cm với nữ.

"Đây là mức gia tốc tăng chiều cao rất ấn tượng - ngang với Nhật Bản thời kỳ 1960-1980", GS Tuyên nói, giải thích các nhà khoa học coi đây là giai đoạn phát triển bù (catch-up), thường xảy ra khi nền kinh tế phát triển, chăm sóc y tế 1.000 ngày đầu đời được chú trọng và đặc biệt là thanh toán cơ bản các vấn đề thiếu vi chất dinh dưỡng.

TS.BS Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Y học ứng dụng Việt Nam, Phó Tổng thư ký Tổng hội Y học Việt Nam, cũng đánh giá đây là mức tăng đáng kể, nhanh nhất từ trước đến nay, giúp Việt Nam không còn thuộc nhóm "lùn nhất Đông Nam Á". Hiện, Việt Nam đứng thứ 4 về chiều cao trung bình trong khu vực, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Còn trên thế giới, theo nghiên cứu của NCD Risk Factor Collaboration, chiều cao người Việt Nam đứng thứ 153 trên tổng số 201 quốc gia, vùng lãnh thổ. Chiều cao này vẫn còn thấp so với mặt bằng chung toàn cầu (nam giới trung bình khoảng 171 cm), nhưng đã có sự tiến bộ so với vị trí 181/200 nước theo thống kê năm 2017.

Chiến lược nâng tầm vóc toàn dân

Các chuyên gia nhìn nhận sự tăng trưởng chiều cao của người Việt không phải ngẫu nhiên mà là kết quả của một chiến lược tổng thể, được thực hiện một cách bài bản và kiên trì trong suốt những thập kỷ qua, đặc biệt là dinh dưỡng. Điểm khởi đầu quan trọng là Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em từ năm 1998. Chương trình can thiệp trên toàn quốc và tập trung vào cải thiện dinh dưỡng cho trẻ ngay từ những năm đầu đời, đặc biệt là 1.000 ngày đầu đời. Đây là "thời điểm vàng" quyết định đến 60% khả năng phát triển chiều cao của một người.

Một dấu mốc nữa là Chính phủ ban hành Nghị định số 09/2016 về tăng cường vi chất vào thực phẩm để đảm bảo người dân không bị thiếu vi chất (như 126 quốc gia đã quy định bắt buộc) để bảo vệ sức khỏe người dân. Bên cạnh đó, đây cũng thời điểm nền kinh tế Việt Nam đã có những phát triển mạnh, qua đó giúp cải thiện đáng kể bữa ăn hàng ngày của người dân. Lượng calo, rau củ và thịt tiêu thụ trung bình đều tăng lên, góp phần nâng cao thể trạng chung.

Quá trình cải thiện tầm vóc người Việt còn được duy trì và thúc đẩy nhờ các chương trình can thiệp khác, đặc biệt là trong môi trường học đường. Trẻ uống sữa học đường và hoạt động thể chất để phát triển toàn diện. Đặc biệt, nhận thức của người dân cũng thay đổi, quan tâm nhiều hơn về phát triển thể chất, trí tuệ cho con, trong đó có tăng trưởng chiều cao.

"Tầm vóc trung bình của thanh niên Việt Nam hiện nay là của những người trẻ sinh ra vào khoảng năm 2000. Đây chính là thế hệ được hưởng lợi trực tiếp từ những chương trình can thiệp này", ông Sơn nói, thêm rằng không có một can thiệp "ăn xổi", ngắn hạn và hời hợt nào có thể đem lại các hiệu quả về chiều cao cho một quốc gia.

Mục tiêu chính được đặt ra trong Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045 là tiếp tục tăng chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, nam thanh niên 18 tuổi trung bình đạt 168,5 cm, còn nữ là 157,5 cm.

GS Tuyên nhắc lại nghiên cứu của TS Nguyễn Việt "với khoảng 60 bộ xương người lớn Đông Sơn khai quật tại Động Xá, thì chiều cao của nữ giới trung bình từ 1,4 m đến 1,5 m, nam giới từ 1,45 đến 1,65 m". Marlene Oostryck đưa ra các bộ xương cổ (cùng xấp xỉ thời gian đó) hiện trưng bày ở Bảo tàng Hàng Hải London thì chiều cao nam nữ đều tương tự.

"Rõ ràng theo bộ gene quy định thì người Việt ta không hề thấp so với các nước", GS Tuyên nói. Thực tế giờ đây, các đội bóng đá, bóng chuyền, cả nam và nữ không còn thua kém về tầm vóc so với các nước Đông Nam Á. Việt Nam đặt mục tiêu lớn hơn để tiệm cận về tầm vóc với người Nhật, Hàn Quốc... trong tương lai.

Còn TS Sơn nhìn nhận phát triển chiều cao là tổng hợp của nhiều yếu tố, không coi nặng yếu tố nào mà phải phát triển tổng thể. Gene là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu tố duy nhất quyết định chiều cao. Quá trình tăng tốc về chiều cao ở Nhật Bản là một minh chứng rõ nhất. Trước năm 1945, Nhật vẫn là một nước có chiều cao khiêm tốn, nhưng hiện nay chiều cao của họ đã cải thiện rất nhiều và thuộc top cao ở châu Á.

Vì vậy, việc chăm sóc theo vòng đời, cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn, tăng cường vi chất vào thực phẩm... là những điểm cốt lõi cần theo đuổi và thực hiện. Các giải pháp về can thiệp dinh dưỡng cần được triển khai liên tục, trên diện rộng toàn quốc với các mục tiêu cho từng vùng, cho nhiều nhóm đối tượng và có các giải pháp tập trung ưu tiên cho phụ nữ mang thai và trẻ em.

Mỗi năm, Việt Nam có gần 2 triệu trẻ em ra đời. Việc giáo dục dinh dưỡng cho bà mẹ, các can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em mới ra đời vẫn cần phải tiếp tục đẩy mạnh và duy trì để ngăn chặn suy dinh dưỡng trẻ em và cải thiện tầm vóc của người dân.

"Đất nước sẽ cất cánh nếu nguồn nhân lực con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần", GS Tuyên nói, đề cập đến những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong điều kiện đầy đủ về mọi mặt hiện nay, như học sinh lớp 11 con của chị Ngọc.

Anh-chup-Man-hinh-2025-08-09-l-6272-5743-1754717972.png?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=WP-bQ2zpbQ_n2bjgjSGU5Q

Học sinh lớp 10 ở Hà Nội năm 2025. Ảnh: Tùng Đinh

Lê Nga

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022