Phát hiện phình động mạch chủ sau 10 năm nhồi máu cơ tim
Theo thông tin từ BVĐK Tâm Anh, bệnh nhân Thomas (quốc tịch Italia) bị nhồi máu cơ tim cách đây 10 năm, được đặt hai stent mạch vành, hiện sức khỏe ổn định. Ông tái khám và uống thuốc đầy đủ. Ba năm trước ông phát hiện phình động mạch chủ, kích thước < 40 mm. Lúc đó, khối phình còn nhỏ, chưa có triệu chứng gì nên các bác sĩ chỉ định theo dõi.
Gần đây bệnh nhân có cảm giác tức bụng nên đến BVĐK Tâm Anh TP.HCM kiểm tra. Kết quả ghi nhận túi phình động mạch chủ bụng dưới thận có dạng thoi, kéo dài 83 mm đến chỗ chia đôi động mạch chủ. Đáng lưu ý, chỉ trong vòng ba tháng, khối phình từ 48 mm đã tăng lên 54 mm.

Bác sĩ đặt stent graft vào đoạn động mạch chủ bị phình cho bệnh nhân. Ảnh: BVCC
TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Lồng ngực – Mạch máu cho biết, theo khuyến cáo của các hội mạch máu châu Âu cũng như Hoa Kỳ, chỉ định can thiệp hoặc phẫu thuật phình động mạch chủ khi túi phình có kích thước 55 mm trở lên, hoặc có tốc độ phát triển nhiều hơn 6 mm một năm, hoặc trong quá trình theo dõi xuất hiện triệu chứng căng tức ở bụng.
Bác sĩ Dũng cùng ê kíp tiến hành thủ thuật đặt stent graft động mạch chủ bụng – chậu cho người bệnh. Bệnh nhân tỉnh táo, hết khó chịu vùng bụng ngay sau thủ thuật. Kết quả chụp CT cho thấy lưu lượng máu qua stent graft ổn định, không rò rỉ. Bệnh nhân xuất viện hai ngày sau.
Phình động mạch chủ là gì?
Động mạch chủ là động mạch lớn nhất cơ thể, có nhiệm vụ mang máu giàu oxy từ tim đến tất cả các cơ quan. Động mạch này khi đi qua ngực được gọi là động mạch chủ ngực, đi xuống bụng gọi là động mạch chủ bụng. Trong bụng, ngay phía dưới rốn, động mạch chủ chia thành hai nhánh, được gọi là những nhánh động mạch chậu, mang máu đến cho từng chân.
Phình động mạch chủ bụng xảy ra khi thành động mạch này bị giãn và phình to ra, tạo thành một khối chứa đầy máu, khi kích thước ngang lớn hơn gấp rưỡi (1.5 lần) so với bình thường. Có hai dạng phình động mạch là dạng hình thoi, thành mạch máu giãn ra đều xung quanh chu vi mạch, tạo thành một đoạn phình có hình dạng trụ hoặc hình thoi, tương tự như một đoạn ống bị phình to ở giữa.
Thứ hai là phình động mạch dạng túi, với một túi phình lồi ra từ một bên thành mạch. Đoạn động mạch chủ bị phình có thành mạch yếu hơn bình thường, do đó các mạch máu này rất dễ vỡ dưới áp lực của máu nếu không được điều trị kịp thời.
Nguyên nhân gây phình động mạch chủ
Nguyên nhân phổ biến nhất gây phình động mạch chủ là xơ vữa động mạch. Người bệnh từng bị nhồi máu cơ tim, tình trạng xảy ra do mảng xơ vữa lấp kín lòng mạch vành, cản trở dòng máu đến nuôi tim.
Sau nhiều năm quá trình xơ vữa động mạch tiếp tục diễn ra, lần này làm suy yếu thành mạch dẫn tới phình động mạch chủ – chậu. “Các bệnh lý động mạch có liên quan mật thiết với nhau, khi một hoặc nhiều nhánh động mạch bị tổn thường thì những nhánh ở vị trí khác cũng có nguy cơ tương tự nếu người bệnh không có chế độ ăn uống, sinh hoạt phù hợp để phòng ngừa”, bác sĩ Dũng nhấn mạnh.
Dấu hiệu bị phình động mạch chủ
Hầu hết các trường hợp phình động mạch chủ bụng đều không có triệu chứng ở giai đoạn đầu. Đây là lý do khiến bệnh rất khó phát hiện. Một số khối phình không bao giờ vỡ mà giữ nguyên kích thước nhỏ. Số khác lớn lên theo thời gian, tăng nguy cơ dọa vỡ.
Nếu khối phình động mạch chủ bụng đang phát triển, người bệnh có thể cảm thấy đau sâu, liên tục ở vùng bụng hoặc một bên bụng, đau lưng, vùng xung quanh rốn đập mạnh (giống như đánh trống ngực).
Khi khối phình mạch chủ bị vỡ, cơ hội sống của bệnh nhân sẽ giảm đi sau mỗi giờ (thậm chí là mỗi phút). Vì thế, nếu xuất hiện các triệu chứng nghi vỡ khối phình gồm da nhợt, chân tay lạnh, đổ mồ hôi, chóng mặt, ngất xỉu, tim đập nhanh, buồn nôn và nôn, khó thở, đau đột ngột ở bụng, lưng dưới, chân với mức độ tăng dần…, người bệnh cần được đưa đến bệnh viện khẩn cấp.
Làm gì để ngăn ngừa phình động mạch chủ
Bên cạnh xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu và hút thuốc lá cũng là các yếu tố nguy cơ của chứng phình động mạch chủ.
Để ngăn ngừa bệnh, mỗi người cần nói không với thuốc lá, thay đổi chế độ ăn uống (giảm muối và hạn chế thực phẩm chứa nhiều cholesterol xấu trong chế độ ăn, tăng cường thịt gà, cá, trái cây, rau củ và ngũ cốc nguyên hạt, không uống nước ngọt và đồ uống có ga…),
Tránh các hoạt động gắng sức, giảm căng thẳng, kiểm soát huyết áp và điều trị tốt các bệnh lý nền.