Thời gian qua, mô hình đại học hai cấp như đại học quốc gia và vùng nhiều lần gây tranh cãi. Các cơ sở này có các trường thành viên với đầy đủ cơ cấu, tổ chức, tư cách pháp nhân như một trường đại học thông thường.

Lãnh đạo một số trường trong nước nhìn nhận đây là bất cập, thế giới không có mô hình như vậy nên đề xuất bỏ. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng việc "đại học trong đại học" tồn tại ở nhiều quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ.

TS Vũ Minh Ngọc, cựu nghiên cứu sinh trường Đại học Cầu đường Paris, Pháp, cho biết Pháp cũng có các "đại học trong đại học" như Việt Nam, tồn tại ở hai dạng.

Một là đại học có các đơn vị trực thuộc. Ví dụ Đại học Paris Saclay có 5 khoa, 3 trường cao đẳng công nghệ, 4 đại học danh tiếng (graduated school), một đại học kỹ sư Polytech, hai trường đại học thành viên (university) và 7 cơ quan nghiên cứu.

Hai là hệ thống Polytech - liên minh từ các đại học đào tạo kỹ sư trên cả nước. Liên minh này có Đại học Polytech Paris - Saclay (trường nằm trong Đại học Paris Saclay), Polytech Lille (nằm trong Đại học Lille)...

Tại Anh, Đại học London gồm gần 20 thành viên, bao gồm cả "university", "college", "school", "institute", có thể kể đến King’s College London (KCL), University College London (UCL), trường Kinh tế và Khoa học chính trị London (LSE).

Ông Huỳnh Lưu Đức Toàn, Phó giáo sư làm việc tại Đại học Queen Mary London, Anh, cho biết Đại học London hình thành từ năm 1836, ban đầu chỉ như hội đồng thi cấp bằng cho sinh viên từ UCL và KCL. Đến năm 1900, trường được tái cơ cấu thành mô hình liên đoàn như ngày nay.

Điểm chung của các "đại học trong đại học" trên so với Việt Nam là "trường mẹ" và "trường con" có tư cách pháp nhân riêng, có chủ tịch trường. Các "trường con" là cơ sở giáo dục đại học độc lập, được tự chủ về tuyển sinh, mở ngành, đào tạo... Các "trường con" có thể liên kết với nhau, dùng chung cơ sở vật chất hay phát triển theo chiến lược và mục tiêu chung.

Tuy nhiên thực tế, mô hình ở Việt Nam cũng có một số điểm khác biệt so với thế giới, theo ông Nguyễn Xuân Khánh, phó giáo sư tại Đại học Oulu, Phần Lan, chuyên gia về Giáo dục và Trí tuệ nhân tạo ứng dụng.

dhqt-jpeg-1748662200-2512-1748665767.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=Pa2VFiMPWfXKzfCg1nT08w

Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP HCM. Ảnh: Website nhà trường

Thứ nhất là về nguồn gốc. Ông Khánh cho biết trên thế giới, có trường theo mô hình "đại học trong đại học" do yếu tố lịch sử; có trường do muốn quản lý chung một số vấn đề như tài chính, nhân sự, chiến lược nên tập hợp với nhau. Còn tại Việt Nam, đại học quốc gia hay vùng thành lập bởi quyết định hành chính của Chính phủ, với vai trò đầu tàu chiến lược quốc gia.

"Lý do thành lập đại học hai cấp ở từng quốc gia, thậm chí từng đại học là không giống nhau", ông Khánh nói.

Điểm khác biệt thứ hai là các trường thành viên ở Việt Nam có mức độ tự chủ hạn chế hơn so với ở các nước, dù đã được cải thiện nhiều gần đây. Chẳng hạn về tuyển sinh, các "trường mẹ" vẫn phê duyệt chỉ tiêu và phương thức xét tuyển chung, trong khi nhẽ ra các trường thành viên có thể tự quyết định việc này.

Về nghiên cứu khoa học, theo ông Khánh, khi công bố bài báo, nhìn tên địa chỉ của các tác giả Việt Nam khá lằng nhằng. Ví dụ, tác giả ghi "Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP HCM". Nhiều người nghĩ tác giả để địa chỉ hai nơi nhưng thực ra chỉ là Đại học Quốc gia TP HCM.

"Ở các nước như Anh, Mỹ, các trường thành viên rất độc lập, từ việc quản lý, cấp văn bằng, nghiên cứu. Trong các công bố quốc tế, tác giả chỉ cần ghi tên trường thành viên, không cần ghi tên trường mẹ", ông Khánh nói. "Vì vậy trên các bảng xếp hạng, các trường trực thuộc có thứ hạng độc lập".

Việc gộp chung nghiên cứu giúp đại học quốc gia có thứ hạng cao, nhưng lại hạn chế xuất hiện tên của nhiều trường hơn trên bảng xếp hạng quốc tế. Ví dụ nhìn vào bảng xếp hạng, thế giới sẽ không biết Việt Nam có hai trường Đại học Khoa học tự nhiên.

Trong dự thảo báo cáo về tác động của Luật Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nhìn nhận mô hình như đại học quốc gia và vùng gây khó khăn, phức tạp, đặc biệt khi thực hiện cơ chế tự chủ.

Một điểm khác biệt nữa được các chuyên gia chỉ ra là sự liên kết của các trường đại học thành viên ở Việt Nam lỏng lẻo hơn so với ở các nước.

TS Lê Đông Phương, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục đại học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, nói có thể thấy rõ điều này ở chỗ các trường rất hiếm có chương trình liên kết, công nhận chương trình lẫn nhau.

Ông Phương cũng chỉ ra một số bất cập như gây chồng chéo về quản lý khi cả "trường mẹ" và "trường con" đều có hội đồng trường, ban giám đốc/giám hiệu. Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Quốc hội cũng đề nghị Bộ xem xét, sửa đổi luật về sự tồn tại song song của hội đồng trường đại học thành viên và hội đồng đại học quốc gia.

Ngoài ra, mỗi đơn vị lại có tư cách pháp nhân, gây bất cập ngay trong việc cấp bằng tốt nghiệp. Chẳng hạn, sinh viên từ các trường đại học thành viên nhận bằng do trường đó đóng dấu. Nhưng nếu tốt nghiệp ở khoa thuộc đại học thì sinh viên lại nhận bằng do "đại học mẹ" đóng dấu.

Đánh giá tổng thể, ông Phương cho rằng mô hình đại học hai cấp là lãng phí, nên xem xét chuyển về đại học một cấp như Bách khoa Hà Nội hay Kinh tế Quốc dân, tức một đại học mẹ với các trường trực thuộc.

Ông Khánh thì cho rằng mô hình hai cấp vẫn phát huy được hiệu quả, nhưng quan trọng là phải có quy định rõ ràng. Ví dụ, cần làm rõ trường thành viên tập trung theo hướng nghiên cứu hay đào tạo phổ thông. Nếu đào tạo, các trường cần nhiều sinh viên. Còn nếu nghiên cứu, trường phải coi trọng chất hơn lượng.

TS Vũ Minh Ngọc đề xuất các "trường con" tăng liên kết, công nhận chương trình của nhau và sinh viên có thể chuyển giữa các trường cùng ngành.

Dương Tâm - Thanh Hằng - Lệ Nguyễn

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022