PGS.TS Vũ Hải Quân trả lời phỏng vấn VnExpress về thực trạng nghiên cứu khoa học những năm qua và sự hào hứng chưa từng có ở cơ sở nghiên cứu hàng đầu cả nước sau khi Nghị quyết 57 ra đời. Đại học Quốc gia TP HCM là đơn vị dẫn đầu cả nước về số lượng công bố quốc tế 3 năm liên tiếp từ 2022. Đến nay, trường có 18 ngành và 3 lĩnh vực lọt bảng xếp hạng đại học hàng đầu thế giới QS - nhiều nhất cả nước, với 15 ngành thuộc top 500 thế giới.

PSG-TS-Vu-Ha-i-Qua-n-3-9860-1742121110.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=2FjPRvAiOsLIVKFHQ8uJ_Q

PGS.TS Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia TP HCM, chia sẻ với VnExpress về tác động của Nghị quyết 57 đến các nhà khoa học, tháng 3/2025. Ảnh: Phùng Tiên

- Là đơn vị dẫn đầu cả nước về số lượng công bố quốc tế liên tiếp 3 năm qua, không khí của Đại học Quốc gia TP HCM thay đổi thế nào sau khi Nghị quyết số 57 được ban hành, thưa ông?

- Tôi thấy sự thay đổi rất tích cực, chưa từng có. Các hội nghị, hội thảo triển khai Nghị quyết 57 thu hút cả nghìn thầy cô tham dự, kín chỗ, phải kê thêm ghế.

Có thể thấy, kỳ vọng vào sự thay đổi của Nghị quyết 57 rất lớn bởi đã chạm đến những vấn đề cốt lõi, gợi mở cơ chế, tháo gỡ điểm nghẽn. Trong đó, tôi thấy có ba đột phá quan trọng.

Thứ nhất là tăng chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) lên 2% GDP. Nếu tính trên GDP năm 2024 là 230 nghìn tỷ đồng. Trước đây, mức chi cho nghiên cứu rất thấp. Đơn cử, kinh phí cấp cho Đại học Quốc gia TP HCM mỗi năm khoảng 100 tỷ, trong khi chúng tôi có hơn 1.600 tiến sĩ, chưa kể nhiều người có năng lực cũng mong muốn nghiên cứu.

Đột phá thứ hai là giao quyền tự chủ tài chính cho các nhà khoa học và đơn vị chủ quản, được anh em ví như "khoán" trong khoa học công nghệ. Trước đây, từ lúc viết thuyết minh đến khi có quyết định phê duyệt triển khai và được cấp kinh phí mất tối thiểu một năm. Quy trình rất chậm, trong khi khoa học công nghệ thay đổi từng ngày. Nhiều ý tưởng nghiên cứu khi được duyệt đã lỗi thời. Các đề tài phát sinh đột xuất để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, như dịch Covid-19, rất khó triển khai.

Sau khi được cấp kinh phí, thủ tục giải ngân cũng phức tạp. Đi công tác, khảo sát, tham dự hội nghị hay thuê khoán chuyên môn..., đều phải có minh chứng hoặc hóa đơn tài chính thì mới thanh, quyết toán được, rất mất thời gian. Một số trường hợp phải "vẽ ra" hội thảo để hợp thức hóa việc thanh toán vì định mức quá thấp.

Quy trình đấu thầu mua sắm hóa chất, thiết bị, nguyên vật liệu để triển khai cũng không hợp lý. Từ lúc gửi đề xuất đến khi được làm phải 2-3 năm, nhiều khi nguyên vật liệu đã bị thay thế, hoặc giá cả thay đổi nhưng đấu thầu vẫn phải theo quy định. Cơ quan chức năng khi vào thanh, kiểm tra sẽ đối chiếu thuyết minh ban đầu, nếu có khác biệt sẽ rất khó giải thích.

Tất cả những chuyện không khoa học đó dồn hết lên vai nhà khoa học.

Đột phá thứ ba là chấp nhận rủi ro, tức phải có niềm tin với nhà khoa học. Quá trình nghiên cứu xảy ra rất nhiều vấn đề, có thể không đạt được kết quả do đặt mục tiêu quá cao hoặc đi sai hướng. Chuyện này rất bình thường trong khoa học. Nhưng với cơ chế trước đây, nhà khoa học phải giải trình, đối mặt nguy cơ bị thu hồi kinh phí hoặc chịu trách nhiệm hành chính, thậm chí xử lý hình sự nếu số tiền lớn. Điều này đã giới hạn sự sáng tạo của các nhà khoa học.

Nghiên cứu khoa học là phải tìm ra cái mới, chưa từng có. Trên hành trình đó sẽ có rất nhiều thử thách. Việc Nhà nước sẵn sàng chấp nhận rủi ro tạo cho nhà khoa học không gian rộng hơn để dám sáng tạo.

Dẫn đầu công bố quốc tế nhờ tiên phong khoán sản phẩm

- Thực tế những năm qua, dù không có cơ chế từ Nghị quyết 57, Đại học Quốc gia TP HCM vẫn dẫn đầu cả nước về số lượng công bố quốc tế. Nhà trường đã làm thế nào?

- Để có kết quả đó, chúng tôi phải dũng cảm tiên phong trong việc "khoán" sản phẩm cuối cùng và dám đứng ra chịu trách nhiệm cho các nhà khoa học.

Các đề tài nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu có vòng đời rất ngắn, khoảng hai năm, sau đó phải xin dự án mới và đợi thêm ít nhất một năm nữa mới có kinh phí làm. Quá trình nghiên cứu như vậy rất dở dang, không hợp lý.

Năm 2017, khi Đại học Quốc gia TP HCM chủ trương xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, chúng tôi thuyết phục lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất Chính phủ cho thí điểm cơ chế cấp ngân sách ổn định 5 năm để hoạch định kế hoạch dài hơi. Còn nhà khoa học cứ lo "chạy gạo từng bữa" thì rất khó cho ra sản phẩm tốt.

Trung tâm Vật liệu Cấu trúc Nano và Phân tử (INOMAR) là ví dụ điển hình. Để xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh trước hết phải có sự đầu tư dài hạn, trọng tâm, trọng điểm. Giai đoạn đó, chúng tôi mất rất nhiều thời gian thuyết phục cấp trên tin tưởng các đề tài của trung tâm, cho phép cơ chế đầu tư giai đoạn 5 năm. Đến nay, trung tâm này đã có nhiều công trình nghiên cứu đăng tạp chí hàng đầu thế giới, phối hợp với các đại học lớn như Berkeley, UCLA (Mỹ) đào tạo nghiên cứu sinh, tiến sĩ, và có một số bằng sáng chế do Mỹ hoặc các nước châu Âu cấp.

Từ khi được Trung ương phê duyệt cơ chế riêng cho nhóm nghiên cứu mạnh năm 2018, phần lớn các đề tài khoa học của Đại học Quốc gia TP HCM chỉ yêu cầu cam kết sản phẩm cuối cùng. Nghiên cứu phải đạt hiệu quả về khoa học hoặc phát triển kinh tế xã hội như bài báo khoa học, bằng sáng chế, quy trình công nghệ,... tương ứng dự toán kinh phí đề tài. Nhà khoa học không phải lo chi tiết ngoài chuyên môn.

minh-hoa-2-1742121988-2414-1742124861.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=Sc8y3oFVEDjADO2XcTIVGg

Nghiên cứu bán dẫn là một trong những lĩnh vực nghiên cứu nhiều rủi ro khiến ĐHQG TP HCM gặp khó khăn trong xin kinh phí. Hình ảnh kỹ sư chế tạo linh kiện bán dẫn tại Viện Công nghệ Nano (ĐHQG TP HCM). Ảnh: Quỳnh Trần.

Tuy nhiên, đi tiên phong cũng có những rủi ro. Một vài trường hợp mà Đại học Quốc gia TP HCM không thể chịu trách nhiệm như các nghiên cứu về công nghệ sinh học hay vi mạch bán dẫn, vì có rủi ro lớn và kinh phí cao, trong khi phải mất 5-10 năm mới có kết quả. Hiện chúng tôi vẫn đang phải giải trình.

Bây giờ, Nghị quyết số 57 cho phép "khoán" đến sản phẩm cuối cùng. Cơ chế này mới ở Việt Nam, nhưng là thông lệ từ lâu tại nhiều đại học quốc tế, gọi là cấp quỹ (grant) cho đề tài nghiên cứu. Miễn nhà khoa học tạo ra sản phẩm cuối cùng theo cam kết thì không cần quan tâm đến quy trình.

- Cơ chế "khoán" chỉ xét kết quả, vậy làm thế nào để đảm bảo ngân sách không rơi vào lãng phí?

- "Khoán" nhưng vẫn theo quy trình, chỉ khác nhau lúc nghiệm thu. Cơ quan có thẩm quyền đánh giá trên sản phẩm, còn trao quyền quyết định phê duyệt đề tài cho cơ sở nghiên cứu. Nhà khoa học từ khi đề xuất đề cương đến lúc nghiệm thu sản phẩm đều phải thông qua Hội đồng thẩm định chuyên môn của trường. Họ sẽ chịu trách nhiệm cùng nhà khoa học.

Để giám sát, chúng tôi quyết liệt chuyển đổi số trong quản lý các nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu từ lúc hình thành đến khi thực thi và nghiệm thu sản phẩm. Danh mục đề tài đã duyệt được công bố công khai trên website. Nhà khoa học có lịch sử nghiên cứu tốt sẽ tiếp tục có cơ hội được cấp kinh phí.

Trách nhiệm của nhà khoa học sẽ cao hơn do không chỉ chịu sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền mà cả xã hội.

Cho phép thất bại nhà khoa học dám theo đuổi đến cùng

- Trước đây, tâm lý sợ sai đã ảnh hưởng đến các nhà khoa học thế nào?

- Các nhà khoa học không dám theo đuổi đề tài nghiên cứu mạo hiểm, đột phá, có tiềm năng cao mà phần lớn chọn vùng an toàn.

Tôi đã đọc rất nhiều thuyết minh mà nhà khoa học chỉ rõ sẽ đăng mấy bài báo trên tạp chí Quartile 1 (Q1), ra sản phẩm ứng dụng thế nào, hay sẽ có một bằng phát minh, sáng chế..., thậm chí biết luôn cả tên bài báo. Tôi nhận ra nhà khoa học đã làm thuyết minh này trước đó, sản phẩm hòm hòm rồi nên mới mạnh dạn đăng ký và phần lớn cũng hoàn thành nhiệm vụ. Theo tôi, như vậy không đúng tinh thần làm khoa học.

Công bằng mà nói, mặc dù công bố quốc tế của Đại học Quốc gia TP HCM thời gian qua tăng rất nhiều, nhưng chỉ có vài bài đăng trên những tạp chí uy tín hàng đầu như Nature hoặc Science, tức chưa có nhiều nghiên cứu đột phá.

Ở nước ngoài có những nghiên cứu 10 năm mới ra kết quả, đầu tư rất lớn. Còn với kiểu làm an toàn như hiện nay ở Việt Nam, rất khó có công trình chất lượng đăng tải trên các tạp chí hàng đầu hoặc có những đột phá về mặt công nghệ.

Cũng do tâm lý sợ sai, nhiều nhà khoa học ít dám hợp tác với doanh nghiệp để thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu bởi nếu thất bại, họ có thể bị quy trách nhiệm.

Nghị quyết 57 với chủ trương "cho phép thất bại" đã giúp thay đổi tư duy này, tạo điều kiện để các nhà khoa học dám nghĩ, dám làm.

- Nhà khoa học nghiên cứu ra kết quả rồi, nhưng tại sao đến nay không có sản phẩm được thương mại hóa từ trường đại học?

Có lần tại một hội thảo, tôi gặp lại nữ giáo sư xuất thân từ trường Đại học Bách khoa TP HCM, sau đó ra làm chủ doanh nghiệp lớn. Sau khi nghe các giảng viên trẻ trình bày tham luận và báo cáo khoa học, cô quay sang hỏi: "Sao tôi đi khỏi trường nhiều năm rồi mà quay lại vẫn thấy những đề tài giống như khi còn làm". Tôi nửa đùa nửa thật trả lời: "Thưa cô, những người có ý tưởng, có kết quả nghiên cứu thương mại hóa được thì cũng như cô, họ ra ngoài mở công ty hết, chứ họ không ở lại trường để mà mở doanh nghiệp".

Rất nhiều rào cản khiến đến giờ, không có nghiên cứu nào chính thức được thương mại hóa trong trường đại học, mặc dù nhà khoa học có thể âm thầm chuyển giao cho doanh nghiệp bên ngoài.

- Những rào cản cụ thể đó là gì?

- Thứ nhất, theo Luật Viên chức, các thầy cô giáo ở trường đại học không thể mở doanh nghiệp. Thế nên, họ thường bán kết quả cho các công ty, mà anh em hay nói vui là "bán lúa non" - tức chỉ mới là ý tưởng, sản phẩm mẫu. Nếu muốn tự mở doanh nghiệp, họ phải rời trường, hoặc nhờ người thân đứng tên công ty.

Thứ hai là chưa có cơ chế định giá và xác định quyền sở hữu sản phẩm, tài sản nghiên cứu. Đại học Quốc gia TP HCM có một số cơ sở nghiên cứu về sàng lọc hợp chất thiên nhiên để chế tạo dược phẩm, từng thành công ở một số địa phương như An Giang, Đồng Nai, Bình Dương. Thế nhưng khi chuẩn bị chuyển giao công nghệ thì các bên không biết chia sẻ quyền lợi thế nào, gồm Sở Khoa học và Công nghệ địa phương, đơn vị chủ quản là Đại học Quốc gia TP HCM và nhà khoa học. Cuối cùng loay hoay hoài và không chuyển giao được.

Thứ ba là chưa có cơ chế hợp tác với doanh nghiệp. Bởi không định giá được nên doanh nghiệp đầu tư không biết được hưởng bao nhiêu giá trị trong nghiên cứu.

Khi không có nghiên cứu thương mại hóa được thì xã hội không tin, cho rằng đầu tư bao nhiêu tiền cho nhà khoa học rồi cuối cùng không ra được sản phẩm gì. Nhà khoa học cần lấy lại niềm tin ở xã hội.

Đại học Quốc gia TP HCM hiện rất mong chờ được giải phóng khỏi những rào cản này. Chúng tôi có một số sản phẩm về dược của trường Đại học Khoa học tự nhiên và Đại học Khoa học Sức khỏe, hay về an toàn thông tin của Trung tâm An ninh mạng... chỉ chờ cơ chế pháp lý để thương mại hóa. Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi dự kiến được Quốc hội thông qua năm nay sẽ cụ thể hóa việc này.

Vien-cong-nghe-sinh-hoc-174212-2544-7036-1742124861.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=epQRqiyVKPVzZ_IzLqwPYg

Giảng viên trường Đại học Bách khoa TP HCM hướng dẫn học viên trong phòng thí nghiệm. Ảnh: OISP

- Nhưng để thương mại hóa kết quả nghiên cứu cũng cần đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cho các nhà khoa học. Hiện, các kết quả nghiên cứu đang được bảo hộ thế nào?

- Tôi phải thẳng thắn thừa nhận Đại học Quốc gia TP HCM còn yếu trong vấn đề này. Chúng ta thiếu chuyên gia về sở hữu trí tuệ. Ngay cả việc viết đơn bảo hộ, đơn xin quyền sáng chế để đảm bảo quyền lợi của nhà khoa học và tính mở trong nghiên cứu cũng còn hạn chế.

Nếu chúng ta không chú trọng việc này, các sản phẩm nghiên cứu rất dễ bị khai thác, chiếm dụng. Ngược lại, một số nhà khoa học có thể lấy ý tưởng đã được bảo hộ ở nước ngoài về Việt Nam để làm các sản phẩm tương tự, nguy cơ đối diện các rắc rối pháp lý, kiện tụng rất phức tạp về sau.

Giải pháp là áp dụng chuyển đổi số toàn diện để có hệ thống dữ liệu quản lý toàn bộ các sản phẩm có sở hữu trí tuệ, trước hết là trong nước và hướng tới liên thông với quốc tế.

Áp dụng chuyển đổi số không còn chuyện nghiên cứu trùng nhau

- Ông hình dung đến năm 2030, nghiên cứu khoa học tại Việt Nam sẽ thay đổi thế nào?

- Trong tương lai, các trường đại học sẽ là chủ thể nghiên cứu chính. Quy trình quản lý đề tài sẽ thay đổi ở mọi khâu.

Các đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ tập trung về một đầu mối duy nhất, thay vì phân tán ở nhiều bộ ngành, địa phương. Nhà nước phải xác định các sản phẩm, công nghệ chiến lược quốc gia, có định hướng chương trình trọng điểm để ưu tiên đầu tư.

Thực tế hiện nay, nhiều đề tài trùng lặp, na ná nhau, do mỗi bộ ngành, địa phương có chương trình nghiên cứu riêng. Thế nên mới có tình trạng một số nhà khoa học cùng một đề tài nhưng làm ở nhiều chỗ khác nhau mà không bị phát hiện.

Khi thực hiện chuyển đổi số toàn diện, mọi đề tài đều công khai, minh bạch trên một nền tảng chung duy nhất thì tình trạng này rất khó xảy ra. Dần dần, đây sẽ trở thành sàn giao dịch sản phẩm khoa học công nghệ, nơi kết nối giữa nhà khoa học, đại học với doanh nghiệp. Các công ty có thể tìm kiếm giải pháp khoa học tại đây để thương mại hóa, từng bước kiến tạo hệ sinh thái khoa học công nghệ.

Để đạt kết quả đó, Nhà nước cần xây dựng kế hoạch thực thi Nghị quyết 57 tổng thể, theo lộ trình, giao một số địa phương, trường đại học, doanh nghiệp tiên phong triển khai rồi đánh giá, nhân rộng. Đây là bước tạo đà cho những năm sau.

Nếu chúng ta nhất quán, kiên định đi theo đúng lộ trình của Nghị quyết 57, các đại học sẽ có bước phát triển đột phá, giải phóng mọi nguồn lực, từ con người, thể chế đến kinh tế. Ba yếu tố này cộng hưởng sẽ tạo ra xung lực rất lớn cho xã hội.

Thu Hằng - Nhật Lệ

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022