
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại buổi làm việc với Bộ Quốc phòng, bên phải là Bộ trưởng Quốc phòng - đại tướng Phan Văn Giang. Ảnh: Giang Huy
VnExpress giới thiệu bài phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng:
Tôi nhận chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, được hợp nhất từ 2 bộ Khoa học và Công nghệ và Thông tin và Truyền thông, mới được 2 tuần, bộ đầu tiên mà tôi làm việc là Bộ Quốc phòng. Bộ Quốc phòng, quân đội là nơi tôi gắn bó gần như cả đời, gần 40 năm, từ người lính binh nhì tới quân hàm tướng, nhập ngũ năm 1979 và rời đi năm 2018. Cho nên, tình cảm là rất đặc biệt.
Xây dựng và bảo vệ tổ quốc như 2 mặt của một đồng xu, không có thể bên nặng bên nhẹ. Kinh tế mạnh thì mới đảm bảo chi phí được cho quân đội. Quân đội phải mạnh, phải rất mạnh, phải có sức răn đe thì mới ngăn chặn được chiến tranh, không để nó xảy ra, mới giữ được nước, đảm bảo hòa bình để phát triển đất nước. khoa học công nghệ để nâng cao tiềm lực kinh tế thì khoa học công nghệ cũng phải nâng cao tiềm lực quốc phòng. Bộ Quốc phòng phải là một hộ lớn của quốc gia về nghiên cứu khoa học (nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), phát triển công nghệ cao và ứng dụng công nghệ hiện đại. Dựa trên công nghệ mới để thực hiện đổi mới sáng tạo trong mọi hoạt động của Bộ Quốc phòng.
Một số quan điểm, định hướng mới của Bộ Khoa học và Công nghệ là như sau:
Về tuyên ngôn khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ là để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển của nhân loại. Hài hòa với môi trường, giá trị đạo đức xã hội và phẩm giá con người. Kết nối và cân bằng giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Tôn trọng tính tự chủ và sáng tạo của các nhà khoa học công nghệ. Điểm chính của tuyên ngôn này là nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ của Việt Nam sẽ tập trung vào kết quả cuối cùng là đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ con người. Đây là định hướng quan trọng, hướng nghiên cứu khoa học công nghệ phải hướng đến hiệu quả cuối cùng. Nghiên cứu không phải để nghiên cứu mà nghiên cứu để phát triển.
Về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 sẽ được sửa đổi năm nay và trở thành Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được đưa vào và đứng ngang với khoa học công nghệ. Đổi mới sáng tạo là ứng dụng tri thức mới, công nghệ mới do khoa học công nghệ tạo ra để hình thành ý tưởng, giải pháp mới, tạo ra sản phẩm/dịch vụ mới, quy trình mới, mô hình kinh doanh mới, mô hình quản trị mới để phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Nhấn mạnh đổi mới sáng tạo là nhấn mạnh phần ứng dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống.
Về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu và đánh giá hiệu quả cuối cùng của nghiên cứu. Dự án nghiên cứu mà không ra kết quả như dự kiến thì tổ chức nghiên cứu không phải đền bù như trước đây, được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho nhà nước trong quá trình thực hiện nghiên cứu, các nghiên cứu chưa đạt kết quả nhưng có hứa hẹn sẽ được cấp tiếp ngân sách để nghiên cứu đến kết quả cuối cùng. Chấp nhận rủi ro từng nhiệm vụ, từng dự án nghiên cứu nhưng Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn đánh giá hiệu quả tổng thể của các tổ chức nghiên cứu, để xem tổ chức nghiên cứu nào hiệu quả thì sẽ tiếp tục giao thêm nhiệm vụ. Ai làm hiệu quả sẽ được cấp kinh phí nhiều hơn. Ai không hiệu quả sẽ bị cắt giảm. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ của các tổ chức nghiên cứu.
Bộ Quốc phòng là một hộ lớn về khoa học công nghệ và nghiên cứu có hiệu quả. Hiệu quả này sẽ được tính dựa trên doanh thu của sản xuất loạt đưa vào trang bị, giảm nhập khẩu. Trung bình mỗi năm, Bộ Quốc phòng được cấp hàng ngàn tỷ đồng cho nghiên cứu. Năm nay, Bộ Khoa học và Công nghệ dự kiến tăng thêm ngân sách nghiên cứu cho Bộ Quốc phòng. Đề nghị Bộ Quốc phòng tập trung vào các nghiên cứu có tính chiến lược, tập trung vào các cơ sở nghiên cứu có uy tín của Quân đội.
Về tự chủ, thực hiện khoán chi. Cơ sở nghiên cứu nhận một cục và chủ động chi, chịu trách nhiệm về chi, không bị quản như là một đơn vị nhà nước chi tiêu ngân sách. Nhà nước quản lý mục tiêu, quản lý đầu ra, quản lý kết quả và hiệu quả nghiên cứu, không quản lý cách làm. Sự thông thoáng này sẽ đẩy nhanh quá trình nghiên cứu.
Về sở hữu kết quả nghiên cứu. Nhà nước cấp tiền cho Bộ Quốc phòng nghiên cứu, nhưng kết quả nghiên cứu sẽ do Bộ Quốc phòng nắm giữ, không phải trả lại kết quả nghiên cứu cho nhà nước. Bộ Quốc phòng sẽ sử dụng các kết quả nghiên cứu này để đưa vào sản xuất phục vụ quốc phòng, đưa vào kinh doanh phục vụ kinh tế. Nhà nước cho phép các cơ sở nghiên cứu được hưởng một phần doanh thu hoặc lợi nhuận khi đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Bộ Quốc phòng cân nhắc việc các nhà máy quốc phòng nếu sản xuất dựa trên kết quả nghiên cứu thì trả cho cơ sở nghiên cứu một phần dựa trên doanh thu hoặc lợi nhuận. Tiền này để tăng thu nhập cho người làm nghiên cứu và tăng đầu tư cơ sở hạ tầng của các cơ sở nghiên cứu.
Về thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu của Bộ Quốc phòng cũng phải lưỡng dụng, hướng tới góp phần cho phát triển kinh tế, tăng trưởng 2 con số. Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Bộ Quốc phòng đạt tỷ lệ 20-30% kết quả nghiên cứu được đưa ra dân sinh. Nếu phần này tăng lên thì Bộ Khoa học và Công nghệ cũng sẽ cấp nhiều hơn nữa ngân sách nghiên cứu khoa học công nghệ cho Bộ Quốc phòng. Quân đội không chỉ là đội quân chiến đấu mà còn là đội quân sản xuất. Bộ Quốc phòng cũng đang sở hữu những doanh nghiệp kinh tế lớn nhất đất nước. Quân đội từ công nghệ cao mà làm công nghệ thấp thì dễ. Các doanh nghiệp dân sinh từ công nghệ thấp mà làm công nghệ cao cho ứng dụng quân đội thì sẽ khó hơn. Thí dụ, Trường Hải làm ô tô Kamaz thì khó, quân đội làm Kamaz rồi làm ôtô tải dân sự sẽ dễ hơn. Kết nối dân sự và quân sự sẽ là việc của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Về thung lũng chết trong nghiên cứu. Tức là sản xuất loạt 0 để hoàn thiện sản phẩm và quy trình sản xuất. Các tài trợ nghiên cứu trước đây thường dừng lại ở sản phẩm mẫu. Nay, tài trợ nghiên cứu của nhà nước sẽ bao gồm cả sản xuất loạt 0. Bộ Quốc phòng có thể dùng tới 30% tổng ngân sách nghiên cứu để dành cho sản xuất loạt 0. Yêu cầu của Bộ Khoa học và Công nghệ là sau sản xuất loạt 0 thì ít nhất 70% các sản phẩm sẽ được đưa vào sản xuất loạt. Ngân sách sản xuất loạt 0 thì nhà nước tài trợ 50, Bộ Quốc phòng tài trợ đối ứng 50. Thí dụ, Bộ Quốc phòng bỏ ra 500 tỷ/năm thì nhà nước hỗ trợ thêm 500 tỷ nữa thành 1.000 tỷ/năm.
Về nghiên cứu cơ bản phải hỗ trợ cho các nghiên cứu phát triển công nghệ và sản phẩm. Muốn phát triển được các công nghệ hiện đại thì phải cần đến các nghiên cứu cơ bản. Nhà nước hàng năm chi nhiều ngàn tỷ đồng cho nghiên cứu cơ bản, nhưng chủ yếu là không có định hướng. Dựa trên các phát triển công nghệ và sản phẩm của mình, Bộ Quốc phòng đặt ra các bài toán về nghiên cứu cơ bản để đặt hàng các cơ sở nghiên cứu cơ bản bên trong Bộ Quốc phòng, hoặc Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ mang những bài toán này đi đặt hàng các cơ sở nghiên cứu cơ bản của quốc gia bằng nguồn ngân sách Nhà nước, sau đó mang lại phục vụ cho phát triển công nghệ và sản phẩm của Bộ Quốc phòng. Đây là cách tiếp cận mới, rất quan trọng để thúc đẩy nhanh công nghiệp quốc phòng.
Về chuyển dịch các đề tài nghiên cứu từ nhỏ sang lớn, từ các nghiên cứu nhỏ sang các nghiên cứu chiến lược, để nâng tầm các cơ sở nghiên cứu. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung chi cho các nghiên cứu lớn thay vì hàng ngàn nghiên cứu nhỏ chỉ mang lại các cải tiến nhỏ. Bộ Quốc phòng nên định hướng vào các nghiên cứu lớn, giải quyết những vấn đề lớn của Bộ Quốc phòng, những vấn đề lớn của quốc gia, mang lại những tiến bộ đáng kể và vượt bậc cho Bộ Quốc phòng. Và Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ hỗ trợ rất tích cực cho Bộ Quốc phòng trong những nghiên cứu lớn có tầm chiến lược này. Số tiền thì tăng gấp 3 nhưng số đề tài thì giảm 3 lần.
Về tăng tiềm lực, xây dựng hạ tầng khoa học công nghệ. Đó là xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại. Đây là hạ tầng nghiên cứu, phải đầu tư, liên tục đầu tư. Bộ Khoa học và Công nghệ đang định hướng phân bổ 20-30% tổng ngân sách khoa học công nghệ hàng năm để đầu tư vào hạ tầng khoa học công nghệ. Đề nghị Bộ Quốc phòng quan tâm đến hạ tầng khoa học công nghệ trong Bộ Quốc phòng, đây là vấn đề cốt lõi, lâu dài, để đảm bảo thực hiện được các nghiên cứu chiến lược. Viettel vừa qua nghiên cứu được nhiều công nghệ cao thì một trong những nguyên nhân chính là do đầu tư vào các phòng Lab hiện đại, các công cụ mô phỏng hiện đại, ngay từ những ngày đầu tiên. Bộ Khoa học và Công nghệ sẵn sàng đồng hành để tăng tiềm lực nghiên cứu, hạ tầng khoa học công nghệ của Bộ Quốc phòng. Bộ Quốc phòng nên giao nhiệm vụ cầm trịch về xây dựng hạ tầng khoa học công nghệ trong Bộ Quốc phòng, tại các viện trường, doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng cho Cục Khoa học quân sự. Trước mắt là CSDL về hạ tầng này, sau đó là định hướng đầu tư, đảm bảo rằng hạ tầng khoa học công nghệ của Bộ Quốc phòng phải tiến tới ngang hàng các nước phát triển về công nghệ chiến lược, vào năm 2030.
Về tiềm lực con người, nhân lực nghiên cứu chất lượng cao, nhân tài. Bộ Quốc phòng tận dụng cơ chế mới về khoa học công nghệ là dành tới 30% số tiền thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu để chi trực tiếp cho người làm nghiên cứu. Đây là cách để tăng thu nhập cho người làm nghiên cứu, phải có thu nhập cao thì mới thu hút, giữ chân được người tài làm nghiên cứu khoa học công nghệ. Việc tăng lương cơ bản cho người làm nghiên cứu là giải pháp tốt, nhất là đối với các nghiên cứu cơ bản, nhưng việc người làm được hưởng một phần thành quả mà họ làm ra, như là tinh thần của khoán 10, mới là quan trọng. Người làm khoa học công nghệ có thể giàu có, có thể trở thành tỷ phú một cách chân chính. Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Bộ Quốc phòng chi một phần kết quả dựa trên doanh thu hoặc lợi nhuận của các nhà máy sản xuất sản phẩm dựa trên các kết quả nghiên cứu cho các tổ chức nghiên cứu, như đã nói ở trên.
Về chuyển dịch nghiên cứu cơ bản về các trường đại học. Tất cả các quốc gia đều lấy đại học là trung tâm nghiên cứu cơ bản, vì ở đây tập trung cao nhất về nhân lực nghiên cứu cơ bản, đó là đội ngũ giáo viên, giáo sư, sinh viên, nghiên cứu sinh. Để hút nghiên cứu về đại học thì phải đầu tư các phòng thí nghiệm hiện đại cho đại học, phải kiên trì cấp ngân sách nghiên cứu cho các đại học. Nhưng phải hướng các nghiên cứu này vào phục vụ các mục tiêu phát triển công nghệ và sản phẩm chiến lược của quốc gia. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ kiên trì định hướng này. Và sẽ hỗ trợ Bộ Quốc phòng trong định hướng này, nhất là đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm và cấp ngân sách nghiên cứu cơ bản cho các đại học trong quân đội.
Nhưng về phát triển công nghệ và sản phẩm thì cơ bản phải dựa vào các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp. Bộ Quốc phòng có một số viện nghiên cứu mạnh, có một số doanh nghiệp nghiên cứu mạnh. Ngoài nguồn ngân sách cấp qua Bộ Quốc phòng, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tài trợ trực tiếp cho các cơ sở nghiên cứu lớn của Bộ Quốc phòng, như Viettel, các Tổng công ty, các viện nghiên của Viettel, Bệnh viện 108, Học viện Quân y, Viện Khoa học Kỹ thuật quân sự...
Về việc cấp trên chỉ ra và đặt hàng các đề tài nghiên cứu lớn. Trước đây, chủ yếu là các viện, trường đề xuất rồi cấp trên xét duyệt và cấp kinh phí, thì nay sẽ chỉ là chính. Cấp trên thì nắm các vấn đề chiến lược nên sẽ chỉ ra đúng các bài toán lớn và giao các viện trường, doanh nghiệp thực hiện. Đây cũng sẽ là một thay đổi lớn.
Về quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp. Quỹ này đang là một nguồn lực lớn chưa được phát huy. Các doanh nghiệp nói chung chỉ mới dùng được 10-20%. Nguyên nhân là do Luật Khoa học công nghệ giới hạn nội dung chi và thủ tục chi phức tạp. Bộ Khoa học và Công nghệ đang sửa luật để mở rộng nội dung chi và đơn giản hóa thủ tục chi của quỹ này. Trong đó có việc cho phép doanh nghiệp được dùng quỹ để thuê các tổ chức khác làm nghiên cứu. Có nghĩa là Viettel, mỗi năm có khoảng 4.000-5.000 tỷ của quỹ này, hiện chưa dùng hết, có thể đặt hàng các tổ chức nghiên cứu bên trong Bộ Quốc phòng thực hiện các nghiên cứu cơ bản, đây là cách tăng ngân sách nghiên cứu cho Bộ Quốc phòng, vừa giúp Viettel phát triển công nghệ vừa giúp phát triển các cơ sở nghiên cứu của quân đội. Luật mới cũng cho phép doanh nghiệp dùng quỹ này để đầu tư vào các startup công nghệ.
Về việc bố trí tỷ lệ phù hợp cán bộ có chuyên môn, kinh nghiệm về khoa học công nghệ trong cấp uỷ và lãnh đạo các cấp. Khoa học công nghệ trong nhiều năm qua chưa đạt kết quả như mong muốn có lý do là không có người hiểu biết về khoa học công nghệ trong các cấp lãnh đạo. Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã chỉ ra nguyên nhân này và đặt ra yêu cầu về cơ cấu một tỷ lệ phù hợp cán bộ khoa học công nghệ trong cấp uỷ các cấp của nhiệm kỳ này. Tổng Bí thư đã giao Ban Tổ chức trung ương cụ thể hoá nội dung này trong quý 1/2025. Mong Bộ Quốc phòng quan tâm chỉ đạo bố trí cán bộ khoa học công nghệ vào các cấp lãnh đạo để lĩnh vực khoa học công nghệ trong quân đội có bước phát triển đột phá.
Bộ Quốc phòng là một hộ khoa học công nghệ lớn của quốc gia. Bộ Quốc phòng là một hộ tiêu dùng khoa học công nghệ lớn. Một hộ nghiên cứu khoa học công nghệ lớn. Bộ Khoa học và Công nghệ luôn coi Bộ Quốc phòng là một đối tác lớn và tin cậy. Các định hướng chiến lược mới của Bộ Khoa học và Công nghệ chúng tôi sẽ triển khai đầu tiên ở Bộ Quốc phòng.