Dù đã có những bước tiến quan trọng, việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể hiện vẫn còn nhiều bất cập khi triển khai ở địa phương. Làm thế nào để chúng ta có những chính sách tạo ra nguồn lực tiếp sức cho các "báu vật nhân văn sống" trong hành trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản?
Đây là câu hỏi chính được nêu ra tại hội thảo Những báu vật nhân văn sống với việc bảo tồn văn hóa văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam, do Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam cùng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức vừa qua.
Mỗi địa phương mỗi khác
Theo chia sẻ, chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể hiện nay có sự khác biệt rõ rệt giữa các địa phương, cả về mức hỗ trợ, cách thực hiện lẫn hiệu quả lan tỏa.
Cụ thể, tại Hà Tĩnh, theo nghệ nhân ưu tú Hoàng Bá Ngọc (CLB Dân ca ví, giặm Cẩm Xuyên), địa phương vẫn đang áp dụng mức hỗ trợ khá khiêm tốn: Nghệ nhân ưu tú được hỗ trợ khoảng 1 triệu đồng mỗi tháng, nghệ nhân nhân dân là 2 triệu đồng. Ngoài ra, họ không có thêm khoản nào khác.
"Phải ghi nhận rằng, chính sách của Đảng và Nhà nước đã quan tâm rất nhiều đến chúng tôi - những người ở thôn quê, bản làng vẫn lặng lẽ giữ gìn di sản. Tuy nhiên, để nói về sự bù đắp vật chất cho công sức, lao động, cống hiến của mình thì quả thực vẫn còn khá ít ỏi" - ông bày tỏ - "Dẫu vậy, chúng tôi vẫn thấu hiểu và chia sẻ với quê hương, với đất nước, bởi địa phương còn nghèo".
GS Nguyễn Chí Bền
Từ sự thấu hiểu ấy, ông Ngọc cho hay, những người "nghệ sĩ chân đất" như mình vẫn không quên đi trách nhiệm. Phần lớn hoạt động bảo tồn, truyền dạy dân ca hiện nay đều được họ duy trì bằng tinh thần tự nguyện.
"CLB của chúng tôi hiện duy trì hoạt động hoàn toàn bằng tâm huyết, đi diễn đều phải bỏ tiền túi. Tất cả đều vì niềm vui, vì đam mê. Nếu không thực sự yêu nghề, chúng tôi không thể làm nổi như vậy" - ông nói - "Chúng tôi mong Đảng, Nhà nước, trong chủ trương tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc, sẽ quan tâm hơn đến những "bảo tàng sống", những người đang giữ lửa di sản. Không cần nhiều, chỉ cần thêm một chút hỗ trợ thiết thực, chẳng hạn như tiền xăng xe để đi lại, sưu tầm, truyền dạy, hướng dẫn thế hệ trẻ".
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Phương Nam (nguyên diễn viên Nhà hát Dân ca quan họ Bắc Ninh), từ khi dân ca quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2009, địa phương này đã có những chính sách rất quan tâm và đãi ngộ tốt đối với các nghệ nhân dân gian. Thực tế, những chính sách cụ thể này đã tạo động lực duy trì và phát triển mạnh phong trào thực hành dân ca quan họ trong và ngoài tỉnh.
"Các câu lạc bộ được thành lập ngày càng nhiều, lan tỏa sâu rộng tới từng làng, xã; các làng quan họ cổ, câu lạc bộ thực hành gắn kết với nhau để tổ chức nhiều sân chơi, tiêu biểu như các cuộc hát đối đáp đầu Xuân hằng năm" - ông cho biết - "Không chỉ trong phạm vi tỉnh, hoạt động còn mở rộng ra ngoài, kết nối các câu lạc bộ thực hành để quan họ được lan tỏa".
Nghệ sĩ Nguyễn Phương Nam (trái) và nghệ nhân Nguyễn Thị Thanh Lan
Chung cảm xúc, nghệ nhân Nguyễn Thị Thanh Lan (CLB Quan họ thực hành khu 56, phường Đại Phúc, tỉnh Bắc Ninh) chia sẻ: "Ngày xưa chưa có lương, chúng tôi vẫn hát say mê. Giờ có chính sách quan tâm, lại càng phải gìn giữ hơn, không dám lơ là. Dù bận hay ốm, tôi vẫn cố gắng đi biểu diễn, giao lưu, truyền dạy, bởi đã nhận trách nhiệm bảo tồn rồi thì phải làm đến cùng. Đó là niềm vui, cũng là động lực".
Bà Lan cũng cho biết, nhờ có chính sách hỗ trợ, các phong trào thực hành quan họ diễn ra sôi nổi. "Hầu như ngày thường cũng mở canh hát. Câu lạc bộ của chúng tôi, hễ có thời gian rảnh là lại mời câu lạc bộ khác đến hát cùng, hát cho nhau nghe, tháng ít nhất cũng một, hai lần. Nay giao lưu với câu lạc bộ này, mai lại mời câu lạc bộ khác. Một năm, nhà tôi đón quan họ về hát, mở canh quan họ tại gia ít nhất vài ba lần. Lắm lúc phải tự bỏ kinh phí, vì vui, vì đam mê".
"Có đến đâu quý đến đó. Giờ được đãi ngộ hơn trước thì vui chứ, nhưng quan trọng nhất vẫn là tấm lòng. Chúng tôi vẫn chủ yếu hát bằng đam mê, bằng sự tự nguyện. Có được sự quan tâm của tỉnh, lại càng thấy phải trân trọng và cố gắng giữ gìn hơn nữa" - nghệ nhân nói thêm.
Nghệ nhân ưu tú Hoàng Bá Ngọc biểu diễn tại hội thảo khoa học và thực hành diễn xướng dân gian do Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam tổ chức
Từ "danh hiệu" đến "cơ chế" hỗ trợ
Theo GS Nguyễn Chí Bền (nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam), nhìn vào câu chuyện tôn vinh nghệ nhân hiện nay, điều cần thấy trước hết là sự vận động của chính sách văn hóa Việt Nam đã sớm song hành với tinh thần Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có tiếp thu khái niệm "báu vật nhân văn sống".
Cụ thể, ở Việt Nam, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam là đơn vị tiên phong khởi xướng việc phong tặng danh hiệu nghệ nhân dân gian, trước cả khi Nhà nước chính thức vào cuộc. Từ nền tảng này, khi Luật Thi đua khen thưởng được ban hành, Bộ VH,TT&DL đã đề xuất vận dụng để phong tặng 2 danh hiệu cao quý - Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú - cho các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Đây có thể coi là bước đi mang tính thể chế hóa, thể hiện rõ việc Việt Nam tiếp nhận và phát triển tinh thần của UNESCO theo cách riêng của mình.
Các liền chị quan họ biểu diễn tại hội thảo
Nhưng khi đi vào thực tế, vấn đề lại không chỉ nằm ở danh hiệu, mà còn ở cơ chế đi kèm. Theo GS Bền, bất cập lớn nhất hiện nay nằm ở cơ chế phân cấp tài chính: Ngân sách hỗ trợ nghệ nhân được giao cho từng địa phương tự cân đối.
"Có những tỉnh có nguồn thu GDP cao, họ có điều kiện chăm lo cho nghệ nhân. Chẳng hạn, Bắc Ninh có thể chi trả trợ cấp hàng tháng theo lương cơ bản hiện hành, thậm chí hỗ trợ thêm bảo hiểm y tế, đó là chính sách rất tốt" - GS Bền nêu thực tế - "Nhưng nhiều địa phương ở Tây Nguyên hay Nam Bộ thì lại không có điều kiện như vậy".
Mặt khác, nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Bền còn chỉ rõ khoảng trống ở bình diện quốc tế. Theo ông, UNESCO có chính sách rất rõ đối với di sản vật thể: Những di tích được công nhận thường được đầu tư kinh phí để bảo tồn, trùng tu, hoặc kêu gọi quốc tế tài trợ. Việt Nam đã nhận được nhiều nguồn vốn như thế, ví dụ ở Cố đô Huế hay khu di tích Mỹ Sơn. Nhưng với di sản phi vật thể thì không có cơ chế đó: Công ước 2003 không có khoản tài trợ cho nghệ nhân.
Từ thực tiễn ấy, GS Bền cho rằng, trước hết, ngành văn hóa Việt Nam và Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam cần có tiếng nói với UNESCO để mở rộng hợp tác quốc tế, tìm kiếm cơ chế tài trợ cho di sản phi vật thể. Bên cạnh đó, cần có chính sách vĩ mô cấp quốc gia, với một quỹ ngân sách riêng để hỗ trợ nghệ nhân, thay vì phụ thuộc vào khả năng từng địa phương. Nguồn kinh phí này có thể được trích từ Chương trình Chấn hưng văn hóa mà Bộ VH,TT&DL đang xây dựng trình Chính phủ, nhằm cụ thể hóa sự chăm lo với nghệ nhân.
Nhà nghiên cứu này cũng nhấn mạnh việc phải thiết lập cơ chế hỗ trợ cho hoạt động truyền dạy: Nghệ nhân được ký hợp đồng, được trả thù lao khi truyền nghề trong các câu lạc bộ, trường học, trung tâm văn hóa. Đồng thời, cần đầu tư cho họ công cụ, phương tiện, hỗ trợ biểu diễn, lưu trữ, quảng bá bằng công nghệ số. Những chính sách này không chỉ giúp di sản tiếp tục sống, mà còn giúp nghệ nhân thực sự có vị trí trong đời sống hiện đại.
"Sự công nhận là cần thiết, nhưng phải đi kèm cơ chế để nghệ nhân có thể thực hành, truyền dạy, sống được với di sản. Nếu không giải quyết được ngân sách và quản lý thống nhất ở tầm quốc gia thì việc thực hiện chế độ chính sách đối với nghệ nhân còn rất khó" - GS Bền nhấn mạnh.
Tỉnh Bắc Ninh hỗ trợ nghệ nhân thế nào?
Cụ thể, năm 2015, Bắc Ninh đã ban hành Quyết định số 40/2015/QĐ-UBND về việc "Xét tặng danh hiệu nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Bắc Ninh" nhằm khuyến khích, động viên những người có công gìn giữ, phát huy giá trị di sản trong đời sống. Mức hỗ trợ nghệ nhân cũng được quy định chi tiết.
Theo đó, nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể được tỉnh cấp bằng công nhận, kèm theo tiền thưởng 1 lần bằng 7 lần mức lương cơ sở và các chế độ kèm theo gồm: Hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 1 lần mức lương cơ sở; được hỗ trợ phí tham gia bảo hiểm y tế hàng năm; hưởng chế độ mai táng phí áp dụng như đối với công chức, viên chức.
Đối với danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, Nghệ nhân nhân dân được phong tặng (mà Nhà nước không có chế độ đãi ngộ), tỉnh cũng áp dụng chính sách hỗ trợ riêng. Cụ thể, Nghệ nhân ưu tú được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 1,5 lần mức lương cơ sở; Nghệ nhân nhân dân được hưởng 2 lần mức lương cơ sở, cùng chế độ bảo hiểm y tế và mai táng phí như công chức, viên chức.
Ngoài ra, Bắc Ninh còn có cơ chế hỗ trợ làng quan họ, câu lạc bộ quan họ hằng năm với mức: Làng quan họ gốc 30 triệu đồng/làng/năm; làng quan họ thực hành 20 triệu đồng/làng/năm; câu lạc bộ quan họ ngoài tỉnh 20 triệu đồng/câu lạc bộ/năm.



































