
Ảnh người đi xe tay (còn gọi là xe kéo) được giới thiệu trong cuốn Di sản Sài Gòn - TP HCM, do NXB Tổng hợp TP HCM ra mắt dịp 50 năm thống nhất đất nước. Tác giả Nguyễn Hạnh - chủ biên tập sách - cho biết phương tiện xuất hiện rộng rãi trong nước khoảng cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, Sài Gòn có gần 400 chiếc xe tay. Xe tay thông thường có bánh bằng sắt, chỉ có các quan chức mới dùng bánh cao su. Người lính kéo thường mặc áo "kẹp nẹp", đầu đội "nón gù", đi chân không.
Ảnh người đi xe tay (còn gọi là xe kéo) được giới thiệu trong cuốn Di sản Sài Gòn - TP HCM, do NXB Tổng hợp TP HCM ra mắt dịp 50 năm thống nhất đất nước. Tác giả Nguyễn Hạnh - chủ biên tập sách - cho biết phương tiện xuất hiện rộng rãi trong nước khoảng cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, Sài Gòn có gần 400 chiếc xe tay. Xe tay thông thường có bánh bằng sắt, chỉ có các quan chức mới dùng bánh cao su. Người lính kéo thường mặc áo "kẹp nẹp", đầu đội "nón gù", đi chân không.

Xe kéo tập trung ở khu vực trước Nhà hát Lớn. Cũng vào cuối thế kỷ 19, xe có ngựa kéo được xem là phương tiện đi lại tốt nhất trong thành phố. Xe có hai loại: có cửa lên xuống gắn kính, được du nhập từ Malaysia, và loại thường, còn gọi là xe thổ mộ.
Xe kéo tập trung ở khu vực trước Nhà hát Lớn. Cũng vào cuối thế kỷ 19, xe có ngựa kéo được xem là phương tiện đi lại tốt nhất trong thành phố. Xe có hai loại: có cửa lên xuống gắn kính, được du nhập từ Malaysia, và loại thường, còn gọi là xe thổ mộ.

Tàu hỏa Sài Gòn - Mỹ Tho một thời. Năm 1874, Hội đồng Tư vấn và Quản hạt Nam kỳ quyết định xây dựng tuyến đường sắt xuyên miền Nam. Khi xây dựng, tuyến đường phải dừng lại ở Mỹ Tho vì quá nhiều kinh rạch, sông lớn như Vàm Cỏ Đông, sông Tiền, sông Hậu. Năm 1885, sau bốn năm xây dựng, chiếc đầu máy đầu tiên lăn bánh từ ga Sài Gòn về Mỹ Tho. Tuy vậy, đường sắt chưa được thông suốt vì phải dừng lại chuyền tải từ bên kia sông Vàm Cỏ Đông tới Mỹ Tho bằng một đầu máy khác. Năm 1886, việc hoàn thành hai cầu Tân An, Bến Lức cho phép đường sắt đầu tiên của miền Nam thông suốt từ Sài Gòn tới Mỹ Tho, dài 72 km.
Tàu hỏa Sài Gòn - Mỹ Tho một thời. Năm 1874, Hội đồng Tư vấn và Quản hạt Nam kỳ quyết định xây dựng tuyến đường sắt xuyên miền Nam. Khi xây dựng, tuyến đường phải dừng lại ở Mỹ Tho vì quá nhiều kinh rạch, sông lớn như Vàm Cỏ Đông, sông Tiền, sông Hậu. Năm 1885, sau bốn năm xây dựng, chiếc đầu máy đầu tiên lăn bánh từ ga Sài Gòn về Mỹ Tho. Tuy vậy, đường sắt chưa được thông suốt vì phải dừng lại chuyền tải từ bên kia sông Vàm Cỏ Đông tới Mỹ Tho bằng một đầu máy khác. Năm 1886, việc hoàn thành hai cầu Tân An, Bến Lức cho phép đường sắt đầu tiên của miền Nam thông suốt từ Sài Gòn tới Mỹ Tho, dài 72 km.

Thời gian đi hết tuyến khoảng 2,5 giờ, về sau được rút ngắn chưa tới hai tiếng, tức khoảng 37 km/h - tốc độ nhanh so với phương tiện phổ thông của người Việt bấy giờ.
Thời gian đi hết tuyến khoảng 2,5 giờ, về sau được rút ngắn chưa tới hai tiếng, tức khoảng 37 km/h - tốc độ nhanh so với phương tiện phổ thông của người Việt bấy giờ.

Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa từng miêu tả về đoàn tàu một cách hóm hỉnh: "Mỗi lần chạy đầu xe lửa Le Myre de Villers vừa ho vừa khạc ra khói vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tụt xuống, lên dốc không nổi trối kể, xe cặp bến cũng còi, cũng 'xả hơi' ồn ào oai vệ khiếp".
Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa từng miêu tả về đoàn tàu một cách hóm hỉnh: "Mỗi lần chạy đầu xe lửa Le Myre de Villers vừa ho vừa khạc ra khói vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tụt xuống, lên dốc không nổi trối kể, xe cặp bến cũng còi, cũng 'xả hơi' ồn ào oai vệ khiếp".

Năm 1881, tuyến tàu điện Sài Gòn - Chợ Lớn được đưa vào khai thác. Theo tác giả Nguyễn Hạnh, Sài Gòn khi đó chưa có nhà máy và lưới điện. Do đó, dù gọi là tàu điện, để kéo đoàn, người ta phải sử dụng những đầu máy hơi nước nhỏ, gọn, sức kéo thấp, phanh hãm tốt.
Năm 1881, tuyến tàu điện Sài Gòn - Chợ Lớn được đưa vào khai thác. Theo tác giả Nguyễn Hạnh, Sài Gòn khi đó chưa có nhà máy và lưới điện. Do đó, dù gọi là tàu điện, để kéo đoàn, người ta phải sử dụng những đầu máy hơi nước nhỏ, gọn, sức kéo thấp, phanh hãm tốt.

Hình ảnh tàu điện Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn nhìn từ trên cao.
Hình ảnh tàu điện Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn nhìn từ trên cao.

Đầu thế kỷ 20, một công ty Pháp sang và cạnh tranh trên tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn, rồi mở thêm tuyến Sài Gòn - Gò Vấp. Từ năm 1911, ngành điện phát triển, một số đoạn tàu hỏa đi trong thành phố bắt đầu chuyển sang chạy bằng điện. Năm 1923, sau hơn 40 năm khai thác, quá trình "điện hóa" các tuyến hoàn thành. Lúc này, Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn định hình nên một hệ thống tàu điện đúng nghĩa.
Đầu thế kỷ 20, một công ty Pháp sang và cạnh tranh trên tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn, rồi mở thêm tuyến Sài Gòn - Gò Vấp. Từ năm 1911, ngành điện phát triển, một số đoạn tàu hỏa đi trong thành phố bắt đầu chuyển sang chạy bằng điện. Năm 1923, sau hơn 40 năm khai thác, quá trình "điện hóa" các tuyến hoàn thành. Lúc này, Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn định hình nên một hệ thống tàu điện đúng nghĩa.

Di chuyển bằng tàu ghè trên kênh cũng là phương tiện phổ biến đầu thế kỷ 20. Kênh Tàu Hủ được đào vào năm 1819, do Phó Tổng trấn Gia Định Huỳnh Công Lý chỉ huy, bắt đầu từ cầu Thị Thông đến sông Mã Trường. Vua Gia Long đặt tên đoạn kênh ấy là An Thông hà (sông An Thông). Về sau, người Pháp cho vét lại hai lần vào năm 1887 và 1897.
Di chuyển bằng tàu ghè trên kênh cũng là phương tiện phổ biến đầu thế kỷ 20. Kênh Tàu Hủ được đào vào năm 1819, do Phó Tổng trấn Gia Định Huỳnh Công Lý chỉ huy, bắt đầu từ cầu Thị Thông đến sông Mã Trường. Vua Gia Long đặt tên đoạn kênh ấy là An Thông hà (sông An Thông). Về sau, người Pháp cho vét lại hai lần vào năm 1887 và 1897.

Vùng Chợ Lớn xưa buôn bán thịnh vượng một phần lớn là nhờ kênh Tàu Hủ. Đây là đường thủy nối liền Sài Gòn với các sông ngòi chảy xuống miệt Hậu Giang nối với Campuchia. Kinh Tàu Hủ thuận lợi vì giúp thu ngắn đường di chuyển của ghe thuyền, tránh được nguy hiểm khi vào cửa Cần Giờ. Tàu nhỏ, ghe thương hồ, các ghe chài chở lúa từ Bạc Liêu, Bãi Xàu - Sóc Trăng, thuyền chở cá đều xuôi theo kênh Tàu Hủ. Ngoài ra, kênh này còn để giao dịch với thương cảng và các tàu hàng, tàu buôn xuất ngoại.
Vùng Chợ Lớn xưa buôn bán thịnh vượng một phần lớn là nhờ kênh Tàu Hủ. Đây là đường thủy nối liền Sài Gòn với các sông ngòi chảy xuống miệt Hậu Giang nối với Campuchia. Kinh Tàu Hủ thuận lợi vì giúp thu ngắn đường di chuyển của ghe thuyền, tránh được nguy hiểm khi vào cửa Cần Giờ. Tàu nhỏ, ghe thương hồ, các ghe chài chở lúa từ Bạc Liêu, Bãi Xàu - Sóc Trăng, thuyền chở cá đều xuôi theo kênh Tàu Hủ. Ngoài ra, kênh này còn để giao dịch với thương cảng và các tàu hàng, tàu buôn xuất ngoại.
Mai Nhật Ảnh: NXB cung cấp