Sởi là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có thể gây biến chứng nghiêm trọng như viêm phổi, viêm não và suy dinh dưỡng nặng, thậm chí là tử vong - đặc biệt ở trẻ nhỏ. Vắc xin sởi an toàn, giúp bảo vệ hơn 95% người được tiêm khỏi nguy cơ mắc bệnh và giảm đáng kể tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều có thể tiêm loại vắc xin này.
Những người mắc một số bệnh lý dưới đây có thể gặp nguy hiểm hoặc vắc xin không phát huy tác dụng. Vì vậy, cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tiêm phòng và hoãn tiêm, không tiêm nếu cần:
1. Nhiễm trùng cấp tính và sốt cao

Ảnh minh họa
Người mắc bệnh nhiễm trùng cấp tính như viêm phổi nặng, viêm màng não hoặc nhiễm trùng huyết nên hoãn tiêm vắc xin sởi cho đến khi hồi phục. Đặc biệt là những trường hợp sốt cao trên 38,5 độC, không nên tiêm vắc xin sởi ngay lập tức. Bởi vì hệ miễn dịch đang hoạt động mạnh để chống lại nhiễm trùng, có thể làm giảm hiệu quả của vắc xin. Sốt cao có thể là dấu hiệu của một bệnh lý nghiêm trọng, cần điều trị dứt điểm trước khi tiêm chủng. Còn nếu bệnh nhẹ (sốt dưới 38,5 độ C), bác sĩ có thể đánh giá tình trạng cụ thể và cân nhắc tiêm vắc xin tùy thể trạng, độ tuổi, nguy cơ lây nhiễm.
2. Ung thư
Những bệnh nhân ung thư, đặc biệt là người đang hóa trị hoặc xạ trị, không nên tiêm vắc xin sởi. Do lúc này hệ miễn dịch suy yếu nghiêm trọng, không thể tạo ra phản ứng bảo vệ hiệu quả. Vắc xin sởi là vắc xin sống giảm độc lực, có thể gây nguy hiểm cho người bệnh. Chờ tới sau khi kết thúc điều trị ung thư, bác sĩ sẽ đánh giá khả năng hồi phục của hệ miễn dịch trước khi tiêm vắc xin sởi hay bất kỳ loại vắc xin nào khác.
3. Người nhiễm HIV/AIDS giai đoạn tiến triển
Vắc xin sởi (tùy loại vắc xin và trong các trường hợp cụ thể) có thể tiêm cho người nhiễm HIV nhưng phải đảm bảo hệ miễn dịch còn hoạt động tốt. Những trường hợp không nên tiêm gồm:
- Người mắc HIV/AIDS giai đoạn cuối (CD4 < 15%) do hệ miễn dịch không đủ khả năng phản ứng với vắc xin.
- Người đang có tải lượng virus cao, sức khỏe suy kiệt có nguy cơ gặp biến chứng nghiêm trọng khi tiêm vắc xin sống.
4. Người mới ghép tạng hoặc ghép tế bào gốc
Sau khi ghép tạng, bệnh nhân phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, khiến cơ thể không thể chống lại virus trong vắc xin sởi. Vì vậy, người mới ghép tạng (trong vòng 1 - 2 năm) không nên tiêm vắc xin sởi. Người đã ổn định sau ghép tạng hay tế bào gốc có thể được xem xét tiêm vắc xin nếu bác sĩ đánh giá đủ an toàn.
5. Mắc một số bệnh lý tự miễn
Một số bệnh tự miễn có thể khiến cơ thể phản ứng mạnh hơn bình thường với vắc xin sởi, làm bệnh tiến triển nặng hơn. Vì vậy, nếu muốn tiêm vắc xin sởi cần tham khảo kỹ ý kiến từ bác sĩ sau khi cung cấp thông tin chi tiết về bệnh lý. Những bệnh cần lưu ý gồm:
- Lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp: Vắc xin có thể kích hoạt hệ miễn dịch, làm trầm trọng hơn triệu chứng.
- Xơ cứng bì, bệnh viêm ruột mạn tính: Người bệnh thường sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, làm giảm hiệu quả của vắc xin sởi.
6. Một số tình trạng sức khỏe khác
Ngoài ra, còn một số tình trạng sức khỏe khác cần đặc biệt lưu ý khi tiêm vắc xin sởi. Ví dụ như người bị rối loạn đông máu nghiêm trọng (mắc hemophilia, giảm tiểu cầu nặng…) có nguy cơ chảy máu nhiều tại vị trí tiêm, tổn thương mô. Hay những người mắc bệnh thần kinh nặng như hội chứng Guillain-Barré có thể gặp biến chứng nếu tiêm vắc xin sởi.
Người vừa truyền máu hoặc sử dụng globulin miễn dịch trong vòng 3 tháng, vắc xin sởi có thể bị vô hiệu hóa. Trong trường hợp này, nên hoãn tiêm để đảm bảo hiệu quả. Người mắc bệnh lao chưa được điều trị hoặc đang trong quá trình điều trị tiêm vắc xin sởi có thể làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.

Ảnh minh họa
Phụ nữ đang mang thai cũng không được chỉ định tiêm vắc xin sởi, nếu đã tiêm cần tránh có thai trong ít nhất 1 tháng. Người dị ứng nghiêm trọng với các thành phần của vắc xin (gelatin, neomycin…) không được tiêm.
Nhìn chung, trước khi quyết định tiêm vắc xin sởi, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ hoặc chuyên gia y tế để đánh giá tình trạng sức khỏe hiện tại và xác định liệu việc tiêm vắc xin có phù hợp hay không. Việc này giúp đảm bảo an toàn và hiệu quả trong phòng ngừa bệnh sởi.
Nguồn và ảnh: VNVC, Public Health, NHS UK