Chị Lê Thị Hồng, chủ một quầy bún trong ngõ nhỏ tại phường Hà Đông (Hà Nội), phản ánh doanh thu bình quân của quán chỉ khoảng 1-1,3 triệu đồng mỗi ngày, tương đương 30-40 triệu đồng một tháng. Sau khi trừ chi phí thực phẩm, tiền thuê mặt bằng 8 triệu đồng một tháng và chi phí điện nước, lợi nhuận ròng chỉ còn 7-9 triệu đồng. Mức này thấp hơn giảm trừ gia cảnh cho một cá nhân làm công ăn lương.
Tuy vậy, tổng doanh thu năm của chị vẫn vượt ngưỡng 200 triệu đồng, đồng nghĩa phải nộp thuế khoán và lệ phí môn bài như một hộ kinh doanh ổn định, trong khi thực tế lợi nhuận mỏng, không ổn định. "Doanh thu cao trên giấy, nhưng phần lớn là chi phí đầu vào. Lợi nhuận thực nhận không tương xứng với nghĩa vụ thuế", chị nói.
Trường hợp của chị Hồng không cá biệt. Nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ như hàng nước, tạp hóa, quầy ăn sáng trên địa bàn Hà Nội đều có doanh thu vượt mức 200 triệu đồng một năm vì chi phí đầu vào và giá nguyên liệu tăng, chứ không phải mở rộng quy mô hay tăng lợi nhuận. Điều này cho thấy ngưỡng doanh thu 200 triệu đồng mỗi năm - được thiết kế từ bối cảnh giá cả thấp hơn nhiều năm trước - đang trở nên lạc hậu, chưa phản ánh đúng thực trạng kinh doanh nhỏ lẻ đô thị.

Người dân làm thủ tục đăng ký hộ kinh doanh tại trung tâm hành chính công tại UBND xã Bà Điểm, TP HCM. Ảnh: Đình Văn
Theo số liệu từ Bộ Tài chính, đến cuối 2024, cả nước có 3,6 triệu hộ kinh doanh được quản lý thuế, trong đó gần 2 triệu hộ nộp thuế khoán. Mức thu bình quân mỗi hộ khoảng 672.000-700.000 đồng một tháng. Năm ngoái, tổng thu ngân sách từ nhóm hộ và cá nhân kinh doanh đạt khoảng 26.000 tỷ đồng. Nửa đầu năm nay, số này ước đạt trên 17.000 tỷ.
Từ 1/1/2026, nhà điều hành sẽ chấm dứt thu thuế khoán với hộ kinh doanh và chuyển sang quản lý theo tự kê khai, nộp thuế. Trong bối cảnh Chính phủ đang rà soát chính sách thuế với hộ kinh doanh, nhiều ý kiến đề xuất xem xét điều chỉnh ngưỡng doanh thu chịu thuế lên mức phù hợp hơn với mặt bằng giá, chi phí và mức sống hiện nay.
Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín, ngưỡng doanh thu chịu thuế từ 200 triệu đồng với hộ kinh doanh là bất bình đẳng khi so sánh với người làm công ăn lương. Theo ông, doanh thu miễn thuế nên được tính bằng giá trị gia tăng của hộ kinh doanh tạo ra tương ứng với mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân của người làm công ăn lương.
Ông tính toán ngưỡng doanh thu 1 tỷ đồng là "hợp lý, phần nào tạo sự công bằng, bình đẳng giữa người nộp thuế". Mức này cũng phù hợp với quy định hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên phải sử dụng máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế, giúp chính sách có tính đồng bộ và tạo thuận tiện cho người nộp thuế.
Ông Được dẫn số liệu của Thuế TP HCM đến tháng 7/2025 cho thấy có gần 249.000 hộ kinh doanh khoán, trong đó 92,6% ghi nhận doanh thu dưới 1 tỷ đồng. Từ số liệu này, phương án doanh thu miễn thuế 1 tỷ đồng không ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách nhà nước. Phương án này, theo ông, còn tiết kiệm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và thúc đẩy hoạt động của hộ kinh doanh, đặc biệt hộ có quy mô nhỏ và ở vùng sâu, vùng xa.
Tương tự, theo Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc, nếu chia 200 triệu đồng cho 360 ngày, doanh thu bình quân chưa đến 600.000 đồng mỗi ngày. Với giá một bát phở 40.000 - 50.000 đồng, một quán chỉ cần bán khoảng 15 bát mỗi ngày đã vượt mốc doanh thu này.
Do đó, mức 200 triệu đồng một năm đã lỗi thời, cần nâng lên 1 tỷ đồng để phù hợp bối cảnh kinh tế hiện nay. Bà tính toán với doanh thu 1 tỷ đồng mỗi năm, lợi nhuận bình quân khoảng 16%, tương đương 160 triệu đồng, hay khoảng 13,3 triệu đồng mỗi tháng. Mức này tương đương thu nhập của một lao động làm công đang được áp dụng mức giảm trừ gia cảnh 15,5 triệu đồng.

Tiểu thương kinh doanh tại chợ Bến Thành. Ảnh: Quỳnh Trần
Thống kê của cơ quan thuế cho thấy nếu áp ngưỡng 200 triệu đồng, khoảng 44,4% số hộ kinh doanh sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân. Song bà Cúc cho rằng lâu nay các hộ kinh doanh thường có "thói quen" khai thấp doanh thu, hay nói cách khác là họ che giấu khá nhiều doanh thu.
Thực tế cho thấy vẫn còn những trường hợp chênh lệch rất lớn giữa doanh thu kê khai và doanh thu thật. Tại Hà Nội, một trường hợp vừa bị khởi tố vì khai 155 triệu đồng trong khi doanh thu thật lên tới 100 tỷ đồng. Ở Vũng Tàu, hai trường hợp khác thậm chí không kê khai đồng thuế nào dù doanh thu hàng trăm tỷ đồng.
Do đó, bà Cúc cho rằng vấn đề then chốt nằm ở sự minh bạch trong kê khai, qua đó cơ quan quản lý mới có cơ sở để xây dựng mức miễn thuế hợp lý và công bằng. Về phía cơ quan hoạch định chính sách, họ cần đưa ra mức ngưỡng đủ để khuyến khích hộ kinh doanh khai đúng, thay vì cố tình khai thấp.
Ở khía cạnh này, ông Nguyễn Ngọc Tịnh, Phó chủ tịch Hội Tư vấn và Đại lý Thuế TP HCM, cũng cho rằng ngưỡng miễn thuế bao nhiêu cần được xác định dựa trên các dữ liệu thống kê đáng tin cậy. Theo ông, nhà điều hành cần khảo sát diện rộng để xác định doanh thu, chi phí và biên lợi nhuận của hộ kinh doanh (thậm chí cụ thể theo từng lĩnh vực kinh doanh) trước khi ấn định ngưỡng này.
Theo ông Tịnh, chính sách thuế chỉ bền vững khi dựa trên dữ liệu đầy đủ và được điều chỉnh định kỳ (ví dụ 5 năm) theo các chỉ số khách quan như CPI hay GDP bình quân đầu người. Chính sách thiết thực sẽ tạo động lực cũng như phát huy hết vai trò của hộ kinh doanh trong cấu trúc nền kinh tế là tạo công ăn việc làm và trở thành vườn ươm khởi nghiệp.
Phân tích cụ thể hơn, ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng (Đại học Nguyễn Trãi) cho rằng hộ kinh doanh khác với một doanh nghiệp. Bởi, họ không chỉ là một chủ thể kinh tế mà còn là một cấu trúc xã hội mang tính gia đình. Nhiều hộ có 2-3, thậm chí 4 thành viên cùng tham gia sản xuất, buôn bán, phục vụ khách hàng. Tất cả lao động, thời gian, chi phí sinh hoạt, khấu hao tài sản gia đình... đều đan xen, không tách bạch như trong mô hình doanh nghiệp.
Vì vậy, theo chuyên gia, việc chỉ dùng tổng doanh thu làm căn cứ đánh thuế sẽ dễ dẫn đến sai lệch trong việc đánh giá khả năng nộp thuế, đặc biệt với những ngành nghề có lợi nhuận thấp, chi phí vận hành cao hoặc hộ có nhiều lao động gia đình phụ thuộc vào nguồn thu chung.
"Nhiều trường hợp, doanh thu của hộ có thể lớn nhưng lợi nhuận ròng lại rất nhỏ, chỉ đủ để nuôi sống các thành viên gia đình. Nếu không tính đúng và đủ, việc nộp thuế sẽ thành gánh nặng, làm giảm động lực kinh doanh, khả năng tái đầu tư và ảnh hưởng đến an sinh của các hộ lao động tự do", ông lưu ý.
Về giải pháp, chuyên gia cho rằng nhà điều hành cần xây dựng công thức xác định ngưỡng chịu thuế dựa trên bản chất kinh tế, không chỉ dựa trên doanh thu. Theo đó, cơ quan quản lý cần xác định doanh thu thực tế của hộ, khấu trừ chi phí hợp lý để tính lợi nhuận ròng. Đồng thời, phần lợi nhuận ròng cần được chia cho số thành viên lao động trực tiếp trong gia đình, sau đó so sánh thu nhập bình quân này với ngưỡng chịu thuế thu nhập cá nhân.
"Nếu thu nhập bình quân thấp hơn mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân, hộ đó chưa nên chịu nghĩa vụ thuế", ông nói. Theo ông, cách tiếp cận này công bằng giữa hộ kinh doanh và người làm công ăn lương, các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Phương pháp này cũng thể hiện tinh thần "đánh thuế theo khả năng nộp thuế, không đánh thuế vào sinh kế".
Bên cạnh đó, chuyên gia cũng lưu ý chính sách thuế không thể "cào bằng", bởi kinh tế hộ có sự phân hóa rõ rệt về biên lợi nhuận. Chẳng hạn, ngành thương mại - bán lẻ - đại lý có lợi nhuận thấp, thường 3-8% - tức doanh thu cao chưa chắc đủ sống. Dịch vụ ăn uống - lưu trú lợi nhuận tầm 8-15% nhưng chi phí đầu vào, mặt bằng, thất thoát cao. Dịch vụ cá thể (sửa xe, cắt tóc, sửa chữa điện nước) có thu nhập phụ thuộc công lao động, trong khi sản xuất thủ công nhỏ có nguyên liệu biến động, công lao động cao. Hay các dịch vụ chuyên môn nhỏ (kế toán, thiết kế, IT freelance) có lợi nhuận cao hơn, nhưng không ổn định theo mùa vụ.
"Một ngưỡng doanh thu phù hợp cho ngành này có thể bất hợp lý với ngành khác", ông nói, cho rằng chính sách mới cần thiết kế theo hướng ngưỡng doanh thu chịu thuế phân theo nhóm ngành, bảo đảm sát thực tế và giảm xung đột. Ngoài ra, nhà điều hành có thể tính tới yếu tố vùng miền bởi chi phí sinh hoạt khác nhau sẽ có ngưỡng doanh thu khác nhau.
"Hà Nội, TP HCM có mặt bằng, thực phẩm, vận chuyển, nhân công đều đắt đỏ so với hộ kinh doanh ở các tỉnh miền núi. Cùng một doanh thu nhưng lợi nhuận thực tế ở thành phố lớn thường thấp hơn vì chi phí đầu vào cao gấp 2-3 lần", ông dẫn chứng.
Phương Dung - Phương Đông



































