Tại Triển lãm thành tựu Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số Quốc gia, nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và ngày Quốc khánh, từ ngày 28/8 đến 5/9 tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia, Đông Hội, Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ giới thiệu hàng trăm nhà khoa học với những đóng góp tiêu biểu. Dưới đây là một số gương mặt trong số đó.
GS Hồ Đắc Di (1900-1984)
Bác sĩ Hồ Đắc Di là giáo sư đại học người Việt đầu tiên và duy nhất trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, được thực dân Pháp cho phép thực hiện các ca phẫu thuật. Ông nổi tiếng với cụm công trình "Sinh học và bệnh học đại cương; quan điểm, đường lối, phương pháp luận đào tạo cán bộ y tế Việt Nam".
Nghiên cứu của ông có tầm nhìn triết lý sâu sắc, góp phần xây dựng nền y học và giáo dục đại học hiện đại ở Việt Nam, ảnh hưởng rộng đến nhiều thế hệ cán bộ y tế. Công trình nghiên cứu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996.

GS Hồ Đắc Di (bìa phải) tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên tới thăm Trường Đại học Y. Ảnh tư liệu
GS.VS Trần Đại Nghĩa (1913-1997)
Tên tuổi của GS Trần Đại Nghĩa gắn liền với các công trình chế tạo đạn Bazoka, súng SKZ, bom bay. Năm 1996, Hội đồng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ đợt 1 đã tặng giải cho GS.VS Trần Đại Nghĩa. Hội đồng đánh giá súng không giật SKZ là minh chứng cho sự sáng tạo và nỗ lực tự lực trong chế tạo vũ khí kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1945 -1954. SKZ đã gây thiệt hại lớn cho địch nhờ khả năng xuyên phá công sự bê tông dày, và hệ vũ khí đã phát huy hiệu quả chống xe cơ giới trong điều kiện thiếu thốn trang bị. Cả hai loại súng đều cho thấy bước tiến kỹ thuật đáng kể, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội Việt Minh.

GS Trần Đại Nghĩa (đeo kính) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp (bìa phải) tại Triển lãm vũ khí của ngành quân giới, năm 1950. Ảnh tư liệu
GS.VS Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993)
GS.VS Nguyễn Khánh Toàn là một tên tuổi lớn của nền Giáo dục và Khoa học xã hội Việt Nam. Ông có nhiều công trình nghiên cứu về sử học. Trong quá trình nghiên cứu GS Nguyễn Khánh Toàn vận dụng phương pháp luận Mác - Lênin để lý giải nguyên nhân lịch sử, so sánh với các quốc gia khác và khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cách mạng. Các công trình này có giá trị khoa học và giáo dục cao, là tài liệu mẫu mực trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Công trình được ghi nhận và truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996.
GS Trần Văn Giàu (1911-2010)
Trong giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước, GS Trần Văn Giàu được biết đến với các công trình nghiên cứu lịch sử từ 1956 đến 1978 có giá trị khoa học lớn. Đây là các công trình đặt nền móng cho sự phát triển ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Ông cũng là người đào tạo nhiều nhà sử học, nhiều nhà giáo Việt Nam tầm cỡ như Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Bùi Khánh Thế, Bùi Hữu Khánh... Ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và GS Trần Văn Giàu - đồng Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tại Đại hội III (1995) ở Hà Nội. Ảnh: CAND
GS Đào Duy Anh (1904-1988)
Giáo sư, nhà sử học Đào Duy Anh là một học giả tiên phong trong việc đặt nền móng cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam theo quan điểm duy vật lịch sử. Các công trình nghiên cứu của ông về lịch sử, văn hóa và địa lý Việt Nam đã mở ra phương pháp tiếp cận mới, khoa học và dân tộc, có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài. Ông cũng góp phần đào tạo thế hệ sử học hiện đại đầu tiên của Việt Nam, tạo dựng nền tảng học thuật bền vững cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu.
Cụm công trình "Lịch sử và văn hóa Việt Nam" của ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 năm 2000.
GS Đinh Gia Khánh (1924-2003)
GS Đinh Gia Khánh thuộc thế hệ "vàng" các nhà khoa học đầu tiên đặt nền móng cho các ngành khoa học xã hội nhân văn Việt Nam. Ông được biết đến với các nghiên cứu về văn học và văn hóa dân gian Việt Nam. Cụm công trình gồm bốn tác phẩm nghiên cứu của ông không chỉ mang giá trị học thuật sâu sắc, mà còn góp phần mở rộng phạm vi so sánh trong khu vực Đông Nam Á và gắn bó mật thiết với thực tiễn văn hóa - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đây là những đóng góp tiêu biểu, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển bền vững của các nghiên cứu về văn hóa dân gian ở Việt Nam.
Công trình "Nghiên cứu về văn học dân gian và văn hóa dân gian" của ông được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ đợt 1 năm 1996.

GS Đinh Gia Khánh. Ảnh: VNU
GS.TS Nguyễn Văn Huyên (1908-1975)
GS Nguyễn Văn Huyên là nhà khoa học, chính khách, nhà giáo dục nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ XX. Ông là tác giả bộ sách "Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam" là một công trình đặt nền móng cho phương pháp nghiên cứu hiện đại trong các ngành khoa học xã hội Việt Nam, đặc biệt là dân tộc học và văn hóa học. Các công trình trong sách không chỉ có giá trị khoa học lâu dài mà còn góp phần khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc và bảo tồn di sản văn hóa Việt. Bộ sách cũng giới thiệu bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới, ngay từ thời kỳ đất nước còn bị đô hộ. Công trình được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ đợt 2 năm 2000.
GS.VS Nguyễn Văn Hiệu (1838-2022)
Ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, giai đoạn này tên tuổi của GS.VS Nguyễn Văn Hiệu được nhắc đến với nghiên cứu về các hạt sơ cấp, nhóm đối xứng và siêu dẫn nhiệt độ cao.
Công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Hiệu đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và tương tác của các hạt sơ cấp qua việc áp dụng lý thuyết nhóm đối xứng, giúp xác lập cơ sở cho mô hình quark và các quy luật trong tương tác hadron ở năng lượng cao được quốc tế kiểm chứng thực nghiệm và ghi nhận. Ông cũng tiên phong trong việc phát triển lý thuyết về exciton-polariton và cặp Cooper trong vật liệu ngưng tụ, đặc biệt trong siêu dẫn nhiệt độ cao, mang lại các kết quả có ý nghĩa lý thuyết và thực nghiệm sâu sắc. Những đóng góp này không chỉ đặt nền móng cho ngành vật lý lý thuyết hiện đại ở Việt Nam mà còn được quốc tế công nhận bằng "Giải thưởng Lenin".

GS.VS Nguyễn Văn Hiệu. Ảnh: VAST
GS Lê Văn Thiêm (1818-1991)
GS Lê Văn Thiêmđược ghi nhận với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực vật lý-toán học, đặc biệt là xây dựng nghiệm giải tích cho các bài toán liên quan đến môi trường không đồng chất và chất lỏng nhớt. Những nghiên cứu toán học của GS Lê Văn Thiêm đã được ứng dụng hiệu quả vào các bài toán kỹ thuật thiết kế và xây dựng công trình thủy điện, giao thông thời chiến và phát triển khu công nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - kỹ thuật của Việt Nam.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ đợt 1 năm 1996 đã truy tặng cho Cụm công trình: Nghiên cứu cơ bản của toán học lý thuyết và những bài toán về ứng dụng (1960-1970) của ông.

GS Lê Văn Thiêm. Ảnh tư liệu
GS Hoàng Tụy (1927-2019)
GS Hoàng Tụy là người đã đặt nền móng cho nhiều phương pháp giải toán độc đáo, khả thi và có giá trị thực tiễn cao trong các lĩnh vực như kinh tế, kỹ thuật, quản lý. Ông là người đầu tiên đưa ra các phương pháp như "phương pháp cắt Hoàng Tụy" và tiếp cận liên tiếp, góp phần giải quyết nhiều bài toán cấp bách như quy hoạch vùng, giao thông, xây dựng. Những đóng góp này giúp hình thành một số chuyên ngành toán học ở Việt Nam và hỗ trợ phát triển đất nước.
Cụm công trình thuộc lĩnh vực tối ưu hóa: Giải tích tối ưu cục và quy hoạch D.C và ứng dụng của ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ đợt 1 năm 1996.

GS Hoàng Tụy. Ảnh: Lê Anh Dũng
GS.TS Nguyễn Đình Tứ (1932-1996)
GS.TS Nguyễn Đình Tứ là nhà vật lý hạt nhân với các nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và phát hiện phản hạt hyperon sigma âm.
Các nghiên cứu của ông đã đóng góp quan trọng vào lĩnh vực vật lý hạt cơ bản của thế giới với việc phát hiện phản hạt hyperon sigma âm - một minh chứng thực nghiệm cho sự tồn tại của phản vật chất, củng cố lý thuyết của Dirac. Các nghiên cứu đi kèm về sinh hạt, phản hạt và phương pháp phân tích dữ liệu tương tác hạt đã góp phần nâng cao hiểu biết của nhân loại về vật chất, năng lượng và cấu trúc vi mô của vũ trụ. Những thành tựu này không chỉ được quốc tế ghi nhận bằng nhiều công bố và giải thưởng uy tín, mà còn đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển ngành năng lượng nguyên tử tại Việt Nam. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ đợt 2 năm 2000.
GS Nguyễn Xiển (1907-1997)
GS Nguyễn Xiển là người đặt nền móng cho ngành khí tượng thủy văn Việt Nam với nhiều công trình nghiên cứu xuất sắc, đặc biệt về đặc điểm khí hậu miền Bắc và hệ thống bản đồ khí hậu năm 1968. Ông đóng vai trò quan trọng trong xây dựng hệ thống dự báo thời tiết, đào tạo cán bộ, tổ chức mạng lưới quan trắc và ứng dụng dữ liệu khí hậu vào phát triển kinh tế, quốc phòng. Những đóng góp của ông tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định chiến lược sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên khí hậu.
Bảo Anh tổng hợp