Cuộc sống hiện đại đã nhanh chóng làm mất đi những kỹ năng bản địa, ngay cả với những người trẻ tuổitrong cộng đồng các dân tộc ở vùng cao nước ta. Việc duy trì các cuộc thi bắn nỏ mỗi dịp lễ tết ở miền núi đã góp phần gìn giữ truyền thống và kỹ năng độc đáo của họ.

Xem chuyên đề Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất TẠI ĐÂY

1. Năm 2007, tôi nhận giúp Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam nghiên cứu và phục dựng nỏ liên châu thời An Dương Vương. Vùng đất được chọn là xã Vĩnh Tiến, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình cũ (nay là xã Mường Động, Phú Thọ). Đây là một vùng chủ yếu là cư dân người Mường và người Dao sinh sống.

Dàn nỏ các loại từ truyền thống đến hiện đại (sưu tập Bảo tàng Phạm Huy Thông thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á)

Việc dùng nỏ trước kia là tự nhiên và thành thạo với mọi trai tráng và phụ nữ trong vùng, nhưng đã thất truyền khoảng vài ba chục năm nay. Khi tôi tìm người, năm 2007, số người lớn tuổi biết làm nỏ, vót tên chỉ còn lại vài ba người, đủ thành một đội cùng tôi tiến hành tạo nỏ và thực nghiệm bắn.

Có thể khẳng định rằng, nỏ thông dụng trong dân gian gần như không biến đổi gì từ thời Đông Sơn cho đến nay. Phần cơ bản cho một chiếc nỏ là một cánh cung được chọn từ một loại tre đặc biệt có phần thịt dày và mật độ cellulose cao giúp tạo sức bật đàn hồi mạnh. Độ bền, dẻo dai của tre còn phụ thuộc vào mùa trong năm. Dân gian truyền tụng đó là dịp tháng 10 âm lịch hằng năm. Do trong vùng không còn loại tre này nữa, nhóm thực nghiệm đã phải lên tận Đồi Thung cách làng 3 - 4 giờ leo núi, nơi có độ cao 800 - 1000m trên mực nước biển mới lấy được.

2a-17648024333871139030005.jpg2b-1764802433421280286011.jpg

Kiểu lẫy nỏ đẩy (hình trái) và kiểu lẫy nỏ gẩy (hình phải) hiện còn sử dụng trong cộng đồng các dân tộc ở vùng cao nước ta

Để tạo thân nỏ, những cành gỗ sến, táu già sẽ được ưu tiên chọn lựa, nhất là những cành có sẵn độ cong tay cầm phù hợp. Thân nỏ được đẽo dẹt với phần đầu rộng đủ để khoét một lỗ xuyên cánh cung ở đoạn chính giữa. Trên mặt thân gỗ được tạo rãnh nằm cho mũi tên, và tùy theo độ rộng và sức căng của cánh cung mà chủ nhân đẽo vát một khe để đặt chốt phần khe hãm dây cung.

"Có thể khẳng định rằng, nỏ thông dụng trong dân gian gần như không biến đổi gì từ thời Đông Sơn cho đến nay" - TS Nguyễn Việt.

Thống kê khoảng chục cây nỏ hiện lưu tại Bảo tàng Phạm Huy Thông và quan sát ở nhiều bảo tàng khác, tôi nhận ra phần tạo khe hãm dây cung đều làm hoặc từ một loại gỗ quý cứng khác hoặc bằng ngà voi, xương, sừng thú lớn. Chúng được cắt gọt tinh xảo, vừa khít với phần khấc đã dành riêng trên thân nỏ, trên đó có khoét ngang một rãnh hãm dây hình nửa chữ "D" và một khe cò xuyên từ lòng rãnh hãm qua cả thân gỗ để đặt một "lẫy nỏ" đẩy bật dây cung khi cần thiết.

3a-1764802433434915744407.jpg3b-17648024334471718033690.jpg3c-17648024334561501500598.jpg

Hình trái và phải: Hai lẫy nỏ Giao Chỉ gồm 6 bộ phận bằng đồng phát hiện ở Việt Nam (sưu tập CQK, California, Mỹ). Hình giữa: Phần gỗ ốp sơn then ốp chặt phần lẫy nỏ bằng đồng nối với phần rãnh đặt mũi tên (hiện vật trưng bày tại Bảo tàng Cernuschi, Paris, Pháp)

Bản chất sự tinh nhạy hay vụng về của người thợ chế nỏ là ở chỗ này. Và chính từ vật liệu "đặc biệt" để tạo ra phần lẫy nỏ này đã dẫn đến câu chuyện thần thoại: Rùa vàng tặng An Dương Vương một móng để làm ra chiếc lẫy nỏ thần.

2. Khảo cổ học không giúp gì chúng ta trong việc chứng minh lẫy nỏ làm từ móng rùa thần đó. Trong nhiều lần trả lời phỏng vấn liên quan đến chuyện rùa thần và lẫy nỏ, tôi thường giải thích đến cơ chế co thụt chân, đuôi, đầu cổ của loài rùa đã gợi ý sáng tạo một máy nỏ (cơ nỏ) thò thụt, nhả bật dây cung hợp lý. Giờ đây có thể có thêm mối liên hệ với việc dùng các thanh mai rùa để tạo bệ trượt cho rãnh hãm dây cung.

4a-17648024334731390827578.jpg4b-17648024334821240776210.jpg

Hình trái: Chi tiết sáu bộ phận đã tháo rời của một lẫy nỏ bằng đồng thời Giao Chỉ (sưu tập CQK, California, Mỹ). Hình phải: Một tráng sĩ Giao Chỉ đang lên dây cung nỏ, miệng ngậm tên. Hình khắc trong hầm mộ kiểu Hán. Ảnh chụp từ sách Nguyễn Việt, 2010, “Hà Nội thời Tiền Thăng Long”, NXB Hà Nội, trang 668

Khảo cổ học lại đã cung cấp rất nhiều lẫy nỏ bằng đồng trong thời Đông Sơn. Đó là một hệ vận hành mang tính cơ học có độ chính xác cao, thường gọi là "máy nỏ" (cơ nỗ). Như đã ít nhiều nói ở bài trước, những máy nỏ đúc bằng đồng sớm nhất đã thấy trong khoảng thế kỷ 4 - 5 trước Công nguyên, gồm ba bộ phận: một cần hãm dây cung, một cần "khóa" cần hãm dây cung đó, và một cò đẩy khóa để giải phóng sức bật dây cung.

Bộ ba liên kết này được đặt và chốt chặt trong một hộc gỗ trên thân nỏ tạo thành lẫy nỏ có thể hãm, thả tiện lợi. Đây là nguyên lý căn bản của máy nỏ thời Đông Sơn. Những máy nỏ đúc bằng kim loại hiện còn, nhưng những máy nỏ cùng nguyên lý chế bằng tre, gỗ hay xương sừng thì không còn nữa.

Vào khoảng trước, sau Công nguyên, tương ứng với giai đoạn Giao Chỉ hay Đông Sơn muộn, xuất hiện nhiều loại lẫy nỏ đồng gồm sáu bộ phận. Thực chất phần lõi vẫn là cơ chế ba bộ phận như trước, chỉ thêm một hộc đồng và hai chốt bản lề đồng thay thế cho hộc gỗ và chốt tre, gỗ hay xương sừng. Đáng chú ý là xuất hiện khấc thước ngắm, khắc hoặc khảm trên cần hãm dây cung. Kỹ thuật bắn nỏ đương thời cũng đã được chuẩn hóa trong các ghi chú về binh chế tương ứng với các ngấn khắc trên cần hãm dây cung đó.

(còn tiếp)

XEM THÊM TIN TỨC VĂN HOÁ TẠI ĐÂY

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022