Thông tin Tiểu sử HLV Park Hang-seo
Park Hang-seo (Hangeul: 박항서; sinh ngày 4 tháng 1 năm 1959, tại huyện Sancheong, tỉnh Gyeongsang Nam, Hàn Quốc) là một huấn luyện viên bóng đá người Hàn Quốc. Ông chính thức ra mắt vai trò huấn luyện viên trưởng của đội tuyển bóng đá nam và U23 Việt Nam từ ngày 11 tháng 10 năm 2017. Trong sự nghiệp huấn luyện của mình, ông chủ yếu chọn cho các đội bóng do mình dẫn dắt phô diễn lối chơi bóng ngắn, phối hợp đến tận cầu môn. Park Hang-seo bị giới chuyên môn bóng đá ở Hàn Quốc phân tích và chê bai về sự đơn điệu trong chiến thuật. Ông cũng được chính giới truyền thông quê hương đặt cho biệt danh Sleeping One (ngài ngủ gật) trên băng ghế chỉ đạo trận đấu.
Ông Park Hang Seo sinh ngày 4/1/1959, tại huyện Sancheong, tỉnh Gyeongsang Nam, Hàn Quốc. Khi ở vị trí huấn luyện viên, ông cho các cầu thủ ở các đội tuyển phô diễn lối chơi bóng ngắn, phối hợp đến cầu môn.
Từ khi còn nhỏ, ông đã bộc lộ được khả năng chơi bóng. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, ông học tại Đại học Hangyang - chuyên ngành nghiên cứu về thảo dược. Đây là Đại học nổi tiếng ở Hàn Quốc, từng lọt vào top 400 Đại học danh giá nhất thế giới. Đai học Hanyang là nơi từng có nhiều người nổi tiếng trong làng giải trí xứ Hàn theo học. Tuy nhiên, sau khi học Đại học, ông theo con đường bóng đá, khác hoàn toàn chuyên môn được đào tạo.
Tại World Cup 2002, Park Hang Seo từng là trợ lý của HLV Guus Hiddink. Trong giải đấu đó, đội tuyển Hàn Quốc đã đứng thứ 4. Thành tích này cũng tạo nên vị thế mới cho bóng đá xứ kim chi và gây tiếng vang khắp thế giới vào thời điểm đó. Ông từng là HLV trưởng đội tuyển U23 Hàn Quốc và giành được huy chương đồng tại Asiad 2002. Sau chiến thắng chấn động cả châu lục của U23 Việt Nam vừa qua, giới báo chí đặt cho ông cái tên "Guus Hiddink" của Việt Nam.
Tại K.League 1985, ông cũng từng ghi nhiều dấu ấn. Đặc biệt, trong mùa giải K.League năm 1985, ông đã có những pha chuyền bóng ấn tượng đóng góp vào chiến thắng của Lucky-Goldstar Hwangso. Trong giải năm đó, ông có 4 bàn thắng, 3 đường kiến tạo để đồng đội ghi bàn. Ông Park Hang Seo vào thời điểm đó đã có tên trong danh sách đội hình tiêu biểu của K.League 1985.
Vóc dáng không mấy cao lớn, thể hình khiêm tốn, nhưng ông Park có lối chơi bản lĩnh, thông minh, sử dụng chiến thuật hợp lý. Bên cạnh đó, ông còn là người chăm chỉ và ham học hỏi. Những đường chuyền của ông cho đồng đội ở cự ly ngắn nhưng nhanh, chính xác.
Năm 1996, ông bắt đầu sự nghiệp huấn luyện viên ở đội bóng LG Cheetahs, song dấu ấn lớn nhất vẫn là ở World Cup 2002. Ông cũng từng huấn luyện các đội Sangju Sangmu, Jeonam Dragons, Gyeongnam FC và Changwon City FC.
Thời điểm ông Park Hang Seo đến Việt Nam, không phải ai cũng có sự lạc quan và niềm tin ở ông. Bởi người hâm mộ luôn kỳ vọng ở các HLV nội, ngoại nhưng chưa ai tạo được sức bật lớn để đội tuyển của chúng ta có được vị thế tầm cỡ ở châu lục chứ chưa nói thế giới. Và rõ ràng tâm lý đó của người hâm mộ, của giới chuyên gia khi ông Park đến Việt Nam là điều dễ hiểu.
Trước khi sang Việt Nam, ông cùng đội Changwon City kết thúc mùa giải Nationa League - hạng ba Hàn Quốc ở vị trí thứ 6/8. Khi sang Việt Nam, ông cho biết sẽ dồn toàn bộ tâm sức cho công việc mới với đội tuyển Việt Nam.
Sau khi Huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng từ chức, Liên đoàn bóng đá Việt Nam đã họp và báo cáo lên Tổng cục Thể dục thể thao về chủ trương mời huấn luyện viên ngoại dẫn dắt đội tuyển Việt Nam. Có 15 ứng viên với bản lý lịch rất tốt nhưng các cuộc đàm phán gữa VFF với họ đều bất thành. Lý do chính đều do vấn đề tiền lương.
Theo thứ tự ưu tiên, ông Park Hang Seo là cái tên xếp thứ hai sau ứng viên số một Sekizuka Takashi (Nhật Bản) và trên một HLV đến từ châu Âu. HLV Takashi Sekizuka được ưu tiên thương thảo đầu tiên khi từng đưa đội tuyển U-23 Nhật Bản giành vị trí thứ 4 tại Olympic London 2012, từng làm trợ lý cho HLV trưởng đội tuyển Nhật Bản và được các CLB hàng đầu Nhật Bản đánh giá cao về chuyên môn.
Quan trọng hơn, ông Sekizuka Takashi đang không dẫn dắt CLB nào sau khi chia tay CLB Chiba (Nhật Bản). Còn HLV Park Hang Seo không phải là người tự do khi đang dẫn dắt CLB Changwon City thi đấu ở Giải hạng 3 Hàn Quốc 2017.
HLV Takashi Sekizuka đã yêu cầu mức lương, chế độ đãi ngộ khá cao cùng đòi hỏi khá khắt khe về điều kiện sân bãi cho đội tuyển tập luyện. Tuy nhiên, VFF vẫn quyết định sang Nhật Bản để thương thảo cụ thể. Sau khi đích thân Phó chủ tịch thường trực VFF Trần Quốc Tuấn bay sang thương thảo tại Nhật Bản, ông Takashi xin phép được suy nghĩ và sẽ trả lời trong vòng 10 ngày. Sau đó ông đã tế nhị gửi mail xin lỗi VFF là không thể sang VN được vì nhiều lý do.
VFF lập tức chuyển sang phương án hai là HLV Park Hang Seo. Sau khi trao đổi qua lại, người đại diện Lee Dong Jun (người đã nộp đơn ứng cử thay cho ông Park) muốn VFF sang Hàn Quốc bàn bạc cụ thể.
Cuộc thương thảo diễn ra tại Bảo tàng Bóng đá Hàn Quốc thuộc Sân vận động FIFA World Cup 2002 ở Seoul, với sự có mặt của phó chủ tịch thường trực VFF Trần Quốc Tuấn, phó chủ tịch phụ trách tài chính là Đoàn Nguyên Đức, tổng thư ký Lê Hoài Anh, người đại diện Lee Dong Jun cùng vợ chồng ông Park.
Sau khi thương thảo thành công, ông Park Hang-seo đã ký hợp đồng để trở thành huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng đá Việt Nam. Toàn bộ quá trình thương thảo đến khi ký hợp đồng giữa VFF và ông Park, theo báo Thanh Niên mô tả, đã diễn ra trong một thời gian ngắn kỷ lục là 1 ngày. Chỉ ít phút sau khi cuộc đàm phán tại Hàn Quốc kết thúc và cơ bản thống nhất được mọi thứ, trang Twitter tin tức bóng đá Hàn Quốc loan tin "Cựu HLV trưởng CLB Gyeongnam và Jeonnam Park Hang Seo sẽ là tân HLV trưởng đội tuyển VN".
Do sự có mặt tình cờ của một phóng viên Hàn Quốc đã đến Bảo tàng Bóng đá Hàn Quốc chơi vào ngày thương thảo và được người phụ trách bảo tàng cho biết lát nữa sẽ có VFF sang thương thảo hợp đồng với HLV Park Hang Seo. Thế là sau khi VFF làm việc xong với HLV Park Hang Seo, phóng viên này đã viết lên Twitter tin tức bóng đá Hàn Quốc.
Thay vì trả lời từng phóng viên, VFF đành phải viết ngay bản thông cáo báo chí ngắn công bố ngay trên trang web chính thức của VFF, bởi vẫn chưa muốn công bố ngay thông tin này khi mọi thứ chỉ mới đạt được 90%.
Tổng thư ký VFF Lê Hoài Anh cho biết ông Park chỉ nhận mức lương vừa phải. Thậm chí khác với nhiều huấn luyện viên ngoại tiền nhiệm, ông Park còn ở nhà công vụ ngay tại trụ sở VFF.
Mức lương của huấn luyện viên Park không được tiết lộ nhưng theo báo Tiền Phong thì đó là một mức lương không quá cao và còn được phía Liên đoàn bóng đá Hàn Quốc chi trả một phần.
Park Hang-seo tại Seoul, tháng 2 năm 2018 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Park Hang-seo | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 1 tháng 10, 1957 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Sancheong, Gyeongsang Nam, Hàn Quốc | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,65 m (5 ft 5 in) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1977–1980 | Đại học Hanyang | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1981 | Korea First Bank FC (bán chuyên) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1981–1983 | Army FC (nghĩa vụ quân sự) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1984–1988 | Lucky-Goldstar Hwangso | 99 | (15) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1977-1978 | U-20 Hàn Quốc | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1979–1980 | Hàn Quốc B | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1981 | Hàn Quốc | 1 | (0) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp quản lý | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2000–2002 | Hàn Quốc (Trợ lý) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2002 | U-23 Hàn Quốc | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2005–2007 | Gyeongnam FC | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2008–2010 | Jeonnam Dragons | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2012–2015 | Sangju Sangmu | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2017 | Changwon FC | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2017–2022 | U-23 Việt Nam | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2017–2023 | Việt Nam | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2019–2021 | U-22 Việt Nam | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Park Hang-seo | |
Hangul | 박항서 |
---|---|
Hanja | 朴恒緖 |
Romaja quốc ngữ | Bak Hang-seo |
McCune–Reischauer | Pak Hang-sŏ |
Hán-Việt | Phác Hằng Tự |