Chiều 10/12, Quốc hội thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo, tạo khung pháp lý thống nhất cho phát triển, ứng dụng và quản lý AI tại Việt Nam, đưa Việt Nam vào nhóm những quốc gia đầu tiên trên thế giới có luật chuyên biệt về trí tuệ nhân tạo.
Trong định nghĩa được nêu trong luật, trí tuệ nhân tạo (AI) được hiểu là "việc thực hiện bằng điện tử các năng lực trí tuệ của con người, bao gồm học tập, suy luận, nhận thức, phán đoán và hiểu ngôn ngữ tự nhiên". Hệ thống trí tuệ nhân tạo là hệ thống dựa trên máy, được thiết kế để thực hiện các năng lực trí tuệ nhân tạo với các mức độ tự chủ khác nhau, có khả năng tự thích nghi sau khi được triển khai.
Với 8 chương, 35 điều, Luật Trí tuệ nhân tạo của Việt Nam đã đưa ra các quy định liên quan toàn bộ đến các hệ thống AI, từ nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai đến sử dụng.
Luật cũng xác định nguyên tắc cơ bản trong hoạt động về trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam, đó là: AI phục vụ con người, không thay thế thẩm quyền và trách nhiệm của con người. Đồng thời, Việt Nam cũng thúc đẩy phát triển AI xanh, bao trùm và bền vững. Đây được đánh giá sẽ thiết lập nền tảng cho phát triển công nghệ có trách nhiệm, đồng thời thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phổ cập AI đến người dân.

Robot được trưng bày, sử dụng tại triển lãm 80 năm thành tựu đất nước, tháng 8/2025. Ảnh: Lưu Quý
Quản lý AI an toàn và có trách nhiệm
Một trong những nội dung lớn được đề cập đầu tiên trong luật là cơ chế quản lý dựa trên mức độ rủi ro của hệ thống AI. Luật phân loại rủi ro hệ thống AI thành ba mức: cao, trung bình và thấp. Trong đó, hệ thống có rủi ro cao là "có thể gây thiệt hại đáng kể đến tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, an ninh quốc gia".
Các hệ thống rủi ro cao buộc phải trải qua đánh giá sự phù hợp, duy trì hồ sơ kỹ thuật, có nhật ký vận hành và bảo đảm khả năng can thiệp của con người. Nhóm rủi ro trung bình phải minh bạch và giải trình khi cơ quan quản lý yêu cầu, còn nhóm rủi ro thấp chỉ bị giám sát khi xuất hiện dấu hiệu vi phạm. Cách tiếp cận này giúp tránh tình trạng siết chặt đồng loạt, đồng thời tập trung nguồn lực quản lý vào những lĩnh vực có tác động lớn.
Luật cũng dành nhiều điều khoản cho việc minh bạch nội dung sinh ra bởi AI. Đây được đánh giá là vấn đề có tính thực tiễn cao, đặc biệt khi các ứng dụng AI ngày càng mạnh, tạo nguy cơ tin giả, lừa đảo với deepfake lan rộng. Theo đó, các tổ chức, cá nhân cung cấp nội dung âm thanh, hình ảnh hay video tạo bằng AI phải gắn nhãn, đánh dấu để người dùng nhận biết. Ngoài ra, việc sử dụng yếu tố giả mạo hoặc mô phỏng người, sự kiện thật để lừa dối hoặc thao túng nhận thức, hành vi của con người một cách có chủ đích và có hệ thống, bị nghiêm cấm.
Các đơn vị này phải mô tả mục đích sử dụng, nguyên lý vận hành, nguồn dữ liệu và biện pháp kiểm soát rủi ro. Tuy nhiên, để bảo vệ bí mật công nghệ, luật không yêu cầu tiết lộ mã nguồn, thuật toán chi tiết, bộ tham số hoặc bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ.
Ngoài ra, khung đạo đức AI quốc gia cũng được đề cập như một trong những công cụ định hướng phát triển. Các nguyên tắc an toàn, công bằng, minh bạch và tôn trọng quyền con người sẽ được ban hành để các tổ chức, doanh nghiệp tham chiếu khi phát triển và vận hành hệ thống AI.
Xây dựng hạ tầng AI quốc gia
Song song với việc quản lý, Luật AI của Việt Nam cũng đưa ra các quy định nhằm tạo dựng hạ tầng để Việt Nam có thể tự chủ về AI trong dài hạn, trong đó, các vấn đề quan trọng như cơ sở dữ liệu, làm chủ công nghệ và phát triển nhân lực đều được đề cập rõ.
Theo đó, Luật khẳng định hạ tầng trí tuệ nhân tạo quốc gia là hạ tầng chiến lược, bao gồm hạ tầng do Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội đầu tư. Hạ tầng này sẽ được phát triển như một hệ sinh thái thống nhất, mở, an toàn, có khả năng kết nối, chia sẻ và mở rộng, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Luật cũng khuyến khích cơ sở dữ liệu của tổ chức, cá nhân phục vụ trí tuệ nhân tạo có thể chia sẻ với cơ quan nhà nước và tổ chức, cá nhân khác theo cơ chế thỏa thuận. Đặc biệt, luật nêu rõ Thủ tướng sẽ ban hành danh mục bộ dữ liệu phục vụ phát triển trí tuệ nhân tạo trong các lĩnh vực thiết yếu, trong đó ưu tiên dữ liệu văn hóa, ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số, dữ liệu thủ tục hành chính, y tế, giáo dục, nông nghiệp, môi trường, giao thông, kinh tế - xã hội và các lĩnh vực quan trọng khác.
Đây là một điểm đặc biệt của luật tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng xây dựng chủ quyền số, tránh phụ thuộc vào mô hình nước ngoài. Trước đó, các chuyên gia cũng nhiều lần khuyến nghị Việt Nam cần mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt để làm nền tảng cho phát triển AI, đưa ứng dụng AI sâu vào đời sống.

Một người đang truy cập website dịch vụ AI trên máy tính. Ảnh: Nhựt Nam
Ngoài ra, Luật AI của Việt Nam cũng đề cập đến Cổng thông tin điện tử một cửa về trí tuệ nhân tạo và cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống này. Đây sẽ là nền tảng số được thiết lập nhằm hỗ trợ việc tiếp nhận, đăng ký tham gia thử nghiệm có kiểm soát, đồng thời công khai thông tin về hệ thống trí tuệ nhân tạo được sử dụng tại Việt Nam.
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phổ cập AI
Theo Luật AI, Nhà nước khuyến khích phát triển các nhóm công nghệ trí tuệ nhân tạo phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đồng thời chiến lược quốc gia về trí tuệ nhân tạo sẽ được rà soát, đánh giá và cập nhật định kỳ ít nhất ba năm một lần hoặc khi có biến động lớn về công nghệ, thị trường.
Để phát triển hệ sinh thái và thị trường AI, Luật quy định các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này "được hưởng ưu đãi và hỗ trợ cao nhất theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ, đầu tư, công nghiệp công nghệ số, công nghệ cao, chuyển đổi số", và được tạo điều kiện tiếp cận hạ tầng, dữ liệu và môi trường thử nghiệm phục vụ nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ trí tuệ nhân tạo.
Nhà nước cũng sẽ hỗ trợ phát triển hệ sinh thái và thị trường trí tuệ nhân tạo bằng cách ưu tiên sử dụng sản phẩm, dịch vụ AI theo Luật đấu thầu. Ngoài ra, Việt Nam sẽ có Quỹ Phát triển Trí tuệ nhân tạo Quốc gia, do Chính phủ thành lập để huy động, điều phối và phân bổ nguồn lực thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và quản lý AI.
Ngoài ra, việc phát triển nguồn nhân lực AI sẽ được thực hiện theo hướng toàn diện, liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo. Luật cũng nêu rõ giáo dục phổ thông sẽ tích hợp nội dung cơ bản về AI, tư duy tính toán, kỹ năng số và đạo đức công nghệ vào chương trình bắt buộc. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học khuyến khích xây dựng chương trình đào tạo về AI, khoa học dữ liệu và các chuyên ngành liên quan.
"Có chính sách bảo đảm quyền và tạo điều kiện tiếp cận, học tập và thụ hưởng lợi ích từ AI của tổ chức, cá nhân; khuyến khích phát triển và ứng dụng AI phục vụ an sinh xã hội, hỗ trợ người khuyết tật, người nghèo, người dân tộc thiểu số để thu hẹp khoảng cách số; bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc", điều 5 của Luật nêu rõ.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói về việc phát triển AI tại Việt Nam trong Diễn đàn Công nghệ mở 2025. Ảnh: Lưu Quý
Là người dẫn dắt Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định AI là hạ tầng trí tuệ của Việt Nam là đang trở thành một loại hạ tầng quốc gia, giống như điện, Internet. Theo Bộ trưởng, người nào làm chủ được AI, người đó sẽ có lợi thế vượt trội trong sản xuất, kinh doanh, trong y tế, giáo dục, quản trị quốc gia và cả quốc phòng an ninh.
"Việt Nam sẽ thực hiện 'AI hóa' như điện khí hóa và thực hiện nhanh nhất có thể", ông nói.
Nhưng bên cạnh đó, AI cũng đặt ra thách thức và trách nhiệm. Người đứng đầu ngành Khoa học và Công nghệ đánh giá AI mở ra cơ hội lớn, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề về đạo đức, việc làm và niềm tin xã hội, vì vậy, cần phát triển AI vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn. "AI vì con người, không thay thế mà phục vụ con người", ông nói.
Luật Trí tuệ nhân tạo có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2026.
Lưu Quý




































