VNE-Co-1742987881-5728-1742987947.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=XlvVSuPKdKpNqMDBSbLOGQ

Thiết kế của vệ tinh Corona. Ảnh: VICE

Tháng 10/1957, Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên Sputnik. 8 tuần sau, các kỹ sư từ Không quân Mỹ, ARPA (Cơ quan Dự án Nghiên cứu Cao cấp) và CIA gặp gỡ và quyết định chế tạo vệ tinh gián điệp đầu tiên của Mỹ mang tên Corona. Để che đậy mục đích thực sự, chương trình tối mật này được gọi bằng tên khác là "Discoverer" và mô tả như một chương trình nghiên cứu khoa học.

Công nghệ sử dụng trong chương trình Corona rất hiện đại. Mỗi vệ tinh Corona sử dụng phim 70 mm đặc biệt sản xuất bởi Eastman Kodak, đặt vào camera đặc chế trang bị ống kính tiêu cự dài 610 mm. Camera chế tạo bởi nhà thầu quốc phòng Itek rất đồ sộ. Ống kính dài 30 cm và có đường kính 18 cm nhưng camera dài 1,5 mét. Các phiên bản sau còn lớn hơn, dài 2,7 m. Vệ tinh Corona ban đầu mang cuộn phim gần 2,4 km với mỗi camera, nhưng ở thế hệ vệ tinh thứ 5, con số tăng gấp đôi lên gần 4,8 km với mỗi camera.

Những vệ tinh Corona đầu tiên có một camera, nhưng hệ thống hai camera nhanh chóng được áp dụng. Cả hai camera được đặt nghiêng 30 độ để có thể chụp ảnh 3 chiều. Điều này cho phép chuyên gia vẽ bản đồ xác định địa hình. Về cuối chương trình, một camera thứ ba được bổ sung. Các camera này có thể chụp rõ vật thể lớn tới 12 m trên mặt đất. Khi chương trình tiến triển và công nghệ chín muồi, camera có thể quan sát chi tiết nhỏ tới 1,5 mét. Một số nhiệm vụ đạt độ phân giải tới một mét, gần sánh ngang vệ tinh ngày nay. Điều này một phần là so vệ tinh bay ở quỹ đạo gần bề mặt Trái Đất hơn, cách 160 km. Vài nhiệm vụ sau này thậm chí hoạt động ở quỹ đạo thấp hơn, chỉ 120 km.

Ổn định camera và giữ chúng tập trung vào mặt đất trong khi bay ở tốc độ 28.000 km/h không phải nhiệm vụ dễ dàng. Nhằm hiệu chỉnh camera từ vũ trụ, một mạng lưới 267 thanh bê tông khổng lồ được xây dựng trên sa mạc quanh Casa Grande, Arizona. Mỗi thanh rộng hơn 18 m, bao phủ khu vực 41,4 km2. Khoảng một nửa vật đánh dấu này vẫn tồn tại ngày nay.

Điều kỳ quặc nhất trong chương trình Corona là cách chuyển ảnh chụp về Trái Đất. Khác với ảnh kỹ thuật số truyền trực tiếp ảnh từ vệ tinh thông qua sóng vô tuyến, chương trình Corona sử dụng phim chụp bằng máy cơ được phát triển và in ra.

Các kỹ sư của General Electric tạo ra một khoang hồi quyển có biệt danh "xô phim" bắn ra từ vệ tinh. Khoang chở phim chụp trang bị tấm chắn nhiệt tách ra ở độ cao hơn 18.000 m sau khi hồi quyển và bung dù. Nó sẽ được gắn vào một máy bay bay ngang qua ở giữa không trung. Trong trường hợp máy bay bắt trượt, khoang này được thiết kế để trôi nổi trong hai ngày trước khi chìm xuống. Tuy nhiên, sau vài sự cố, Không quân Mỹ quyết định ngừng dán nhãn "Bí mật" trên khoang tàu, thay vào đó họ phát thông báo bằng 8 ngôn ngữ hứa trao tiền thưởng cho người tìm thấy và trả lại cuộn phim.

Chương trình Corona kéo dài 13 năm từ tháng 6/1959 đến tháng 5/1972. Trong suốt thời gian này, vệ tinh đã thu thập hơn 800.000 bức ảnh chụp 1.346 triệu km2 lãnh thổ nước ngoài. Chương trình được giữ bí mật hơn hai thập kỷ cho tới khi tổng thống Bill Clinton lệnh công bố chi tiết chương trình năm 1995.

An Khang (Theo Amusing Planet)

Nguoi-noi-tieng.com (r) © 2008 - 2022